TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NINH HÒA, TỈNH KHÁNH HÒA
BẢN ÁN 39/2018/DS-ST NGÀY 22/10/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Ngày 22 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 56/2018/TLST-DS ngày 17 tháng 4 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 36/2018/QĐXXST-DS ngày 13 tháng 8 năm 2018; quyết định hoãn phiên tòa số 37/2018/QĐST-DS ngày 29 tháng 8 năm 2018; quyết định hoãn phiên tòa số 48/2018/QĐST-DS ngày 21 tháng 9 năm 2018; thông báo dời ngày xét xử vụ án lập ngày 05 tháng 10 năm 2018 của Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP S Địa chỉ: Số 266-268 đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, phường 8, Quận 3, thành phố Hồ Chí Minh
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Lê Minh H – Chức vụ: Phó phòng Phòng kiểm soát rủi ro Ngân hàng TMCP S - chi nhánh Ninh Hòa; địa chỉ: 268 Nguyễn Thị Ngọc Oanh, tổ dân phố 5, phường Ninh Hiệp, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa (Văn bản ủy quyền số 409/2018/GUQ-CNNH ngày 15/10/2018); có mặt.
2. Bị đơn: Bà Lê Thị Hoàng M;
Nơi cư trú: Thôn 1, xã Ninh Thượng, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo nội dung đơn khởi kiện và lời trình bày trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án cũng như tranh tụng tại phiên tòa hôm nay của người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn thể hiện:
Ngày 23/9/2014, bà Lê Thị Hoàng M ký Hợp đồng tín dụng số: 01/LD1426600292 với Ngân hàng TMCP S - Phòng giao dịch Ninh Hòa (Sau đây gọi tắt là Ngân hàng) vay số tiền 150.000.000 đồng; thời hạn vay 12 tháng; mục đích vay để bổ sung vốn sản xuất nông nghiệp; lãi suất 1,15%/tháng.
Tài sản thế chấp để đảm bảo cho khoản vay nêu trên theo Hợp đồng thế chấp số: 1059/HĐTC14 lập ngày 23/9/2014 là Quyền sử dụng đất – Quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với thửa đất số 524, tờ bản đồ số 19, diện tích 1155m2 được Ủy ban nhân dân huyện Ninh Hòa (Nay là Ủy ban nhân dân thị xã Ninh Hòa) cấp giấy chứng nhận số BN 692670 số vào sổ cấp GCN: CH01032 ngày 21 tháng 10 năm 2003 cho bà Lê Thị Hoàng M.
Đến hạn trả nợ, bà Lê Thị Hoàng M không thực hiện nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi, Ngân hàng đã nhiều lần nhắc nợ yêu cầu bà M thanh toán nợ tuy nhiên bà vẫn không thực hiện. Do bà M vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên toàn bộ dư nợ chuyển sang nợ quá hạn. Tạm tính đến ngày 23/7/2018, bà M còn nợ Ngân hàng số tiền: 181.567.500 đồng; trong đó nợ gốc: 150.000.000 đồng; nợ lãi trong hạn: 21.045.000 đồng; nợ lãi quá hạn: 10.522.500 đồng. Nay, Ngân hàng yêu cầu Tòa án buộc bà M phải thanh toán khoản nợ trên cho Ngân hàng.
Ngoài ra, bà M còn phải trả tiền lãi phát sinh theo hợp đồng tín dụng đã ký kết. Trong trường hợp bà M không trả được nợ, đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý tài sản đảm bảo theo quy định của pháp luật để đảm bảo việc thu hồi nợ.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập hợp lệ đối với bị đơn bà Lê Thị Hoàng M nhưng bà M cố tình trốn tránh, không có mặt nên không có bản tự khai và không tiến hành hòa giải được theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn cung cấp cho Hội đồng xét xử Bảng kê chi tiết nợ gốc và lãi tính đến thời điểm xét xử (ngày 22/10/2018) mà bà Lê Thị Hoàng M nợ Ngân hàng, cụ thể: Tổng số tiền nợ là 197.437.500 đồng; trong đó tiền nợ gốc: 150.000.000 đồng, tiền nợ lãi: 31.625.000 đồng, tiền nợ lãi quá hạn: 15.812.500 đồng và đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn số tiền nợ nêu trên.
- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ninh Hòa tại phiên tòa sơ thẩm:
+ Về chấp hành pháp luật: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và nguyên đơn đã chấp hành đúng và đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; bị đơn, không chấp hành nhưng đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt nên đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
+ Về nội dung vụ án: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa nhận thấy có đủ cơ sở chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn bà Lê Thị Hoàng M phải trả cho Ngân hàng số tiền nợ gốc và lãi tính đến thời điểm xét xử (ngày 22/10/2018) là 197.437.500 đồng; trong đó tiền nợ gốc: 150.000.000 đồng, tiền nợ lãi:
31.625.000 đồng, tiền nợ lãi quá hạn: 15.812.500 đồng. Trong trường hợp bà Lê Thị Hoàng M không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý tài sản thế chấp theo quy định của pháp luật để thu hồi nợ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn bà Lê Thị Hoàng M đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Lê Thị Hoàng M ký Hợp đồng tín dụng số: 01/LD1426600292 ngày 23/9/2014 với Ngân hàng TMCP S - Phòng giao dịch Ninh Hòa với tư cách cá nhân; mục đích vay để bổ sung vốn sản xuất nông nghiệp; bà Lê Thị Hoàng M có nơi cư trú tại: Thôn 1, xã Ninh Thượng, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Vì vậy, khi xảy ra vi phạm thuộc tranh chấp dân sự và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa theo quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a, khoản 1, Điều 35 và điểm a, khoản 1, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[3] Về nội dung tranh chấp: Hợp đồng tín dụng số: 01/LD1426600292 ngày 23/9/2014 giữa Ngân hàng TMCP S – Phòng giao dịch Ninh Hòa với bà Lê Thị Hoàng M để vay số tiền: 150.000.000 đồng; thời hạn vay 12 tháng; mục đích vay để bổ sung vốn sản xuất nông nghiệp; lãi suất 1,15%/tháng. Quá trình thực hiện hợp đồng bà M không thực hiện nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi như đã cam kết, Ngân hàng đã nhiều lần nhắc nợ yêu cầu bà M thanh toán nợ tuy nhiên bà vẫn không thực hiện. Khoản vay nêu trên của bà M đã chuyển sang nợ quá hạn. Nay Ngân hàng yêu cầu bà M phải thanh toán số tiền nợ tính đến ngày 22/10/2018 là 197.437.500 đồng; trong đó tiền nợ gốc: 150.000.000 đồng, tiền nợ lãi: 31.625.000 đồng, tiền nợ lãi quá hạn: 15.812.500 đồng Việc bà M kéo dài thời gian trả nợ cho Ngân hàng đã xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của Ngân hàng nên yêu cầu của nguyên đơn là có cơ sở để chấp nhận. Buộc bà Lê Thị Hoàng M phải trả cho Ngân hàng TMCP S số tiền:
197.437.500 đồng (Một trăm chín mươi bảy triệu bốn trăm ba mươi bảy ngàn năm trăm đồng) ngay một lần, khi án có hiệu lực pháp luật.
[4] Về tài sản thế chấp: Để đảm bảo cho khoản nợ vay theo Hợp đồng tín dụng nêu trên, giữa Ngân hàng với bà Lê Thị Hoàng M đã ký Hợp đồng thế chấp số: 1059/HĐTC14 lập ngày 23/9/2014 thế chấp Quyền sử dụng đất – Quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với thửa đất số 524, tờ bản đồ số 19, diện tích 1155m2 được Ủy ban nhân dân huyện Ninh Hòa (Nay là Ủy ban nhân dân thị xã Ninh Hòa) cấp giấy chứng nhận số BN 692670 số vào sổ cấp GCN: CH01032 ngày 21 tháng 10 năm 2003 cho bà Lê Thị Hoàng M.
Hợp đồng thế chấp tài sản nêu trên đã được công chứng và được đăng ký giao dịch đảm bảo theo đúng trình tự pháp luật. Vì vậy, có căn cứ để chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về xử lý tài sản đảm bảo để đảm bảo việc thu hồi nợ của Ngân hàng khi bà Lê Thị Hoàng M không thanh toán được khoản nợ đã cam kết.
Theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ lập ngày 05/7/2018 thì hiện trạng tài sản thế chấp không có gì thay đổi so với thời điểm thế chấp.
Từ những căn cứ nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu của nguyên đơn về việc xử lý tài sản đảm bảo để đảm bảo việc thu hồi nợ của Ngân hàng là có cơ sở nên cần chấp nhận.
[5] Về án phí: Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[6] Xét về quan điểm giải quyết vụ án của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ninh Hòa là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận toàn bộ.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 26; khoản 2 Điều 92; Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 264; Điều 266; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015;
Căn cứ vào Điều 302; Điều 342; Điều 343; Điều 344; Điều 355; Điều 471; Điều 474; Điều 476 Bộ luật Dân sự năm 2005;
Căn cứ Điều 91, khoản 2 Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010;
Căn cứ vào Điều 9; Điều 10, Điều 12 Nghị định số: 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch đảm bảo; Điều 13 Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số: 163/2006/NĐ-CP;
Căn cứ khoản 2, Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
1.1. Buộc bà Lê Thị Hoàng M phải trả cho Ngân hàng TMCP S số tiền nợ tính đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày 22/10/2018) là 197.437.500 đồng (Một trăm chín mươi bảy triệu bốn trăm ba mươi bảy ngàn năm trăm đồng); trong đó tiền nợ gốc: 150.000.000 đồng, tiền nợ lãi: 31.625.000 đồng, tiền nợ lãi quá hạn: 15.812.500 đồng, trả một lần khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Kể từ ngày tiếp theo ngày xét xử sơ thẩm, bà Lê Thị Hoàng M còn phải phải tiếp tục trả lãi phát sinh theo Hợp đồng tín dụng số: 01/LD1426600292 ngày 23/9/2014 cho đến khi trả hết nợ cho Ngân hàng.
1.2. Trong trường hợp bà Lê Thị Hoàng M không thanh toán số nợ trên thì Ngân hàng TMCP S có quyền yêu cầu Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền kê biên bán đấu giá tài sản thế chấp theo theo Hợp đồng thế chấp số: 1059/HĐTC14 lập ngày 23/9/2014 thế chấp Quyền sử dụng đất – Quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với thửa đất số 524, tờ bản đồ số 19, diện tích 1155m2 được Ủy ban nhân dân huyện Ninh Hòa (Nay là Ủy ban nhân dân thị xã Ninh Hòa) cấp giấy chứng nhận số BN 692670 số vào sổ cấp GCN: CH01032 ngày 21 tháng 10 năm 2003 cho bà Lê Thị Hoàng M để thu hồi nợ.
Trong trường hợp việc bán đấu giá tài sản thế chấp không đủ để thanh toán nợ thì bà Lê Thị Hoàng M phải tiếp tục thanh toán các khoản nợ cho đến khi trả xong.
1.3. Ngân hàng TMCP S phải trả lại Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất – Quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với thửa đất số 524, tờ bản đồ số 19, diện tích 1155m2 được Ủy ban nhân dân thị xã Ninh Hòa cấp giấy chứng nhận số BN 692670 số vào sổ cấp GCN: CH01032 ngày 21 tháng 10 năm 2003 cho bà Lê Thị Hoàng M khi bà M thực hiện xong nghĩa vụ thanh toán.
2. Về án phí: Bà Lê Thị Hoàng M phải chịu 9.871.875 đồng (Chín triệu tám trăm bảy mươi mốt ngàn tám trăm bảy mươi lăm đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn lại cho Ngân hàng TMCP S số tiền 4.339.000 đồng (Bốn triệu ba trăm ba mươi chín ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: AA/2016/0003847 ngày 16 tháng 4 năm 2018 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Ninh Hòa.
Quy định chung: Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
3. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 39/2018/DS-ST ngày 22/10/2018 về tranh chấp hợp đồng tín dụng
Số hiệu: | 39/2018/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Ninh Hòa - Khánh Hoà |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 22/10/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về