Bản án 37/2019/HS-ST ngày 26/06/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HẢI HẬU - TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 37/2019/HS-ST NGÀY 26/06/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 6 năm 2019, tại nhà văn hóa trung tâm huyện Hải Hậu, Tòa án nhân dân huyện Hải Hậu tỉnh Nam Định mở phiên tòa xét xử sơ thẩm lưu động công khai vụ án hình sự thụ lý số 35/2019/TLST-HS ngày 30 tháng 5 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 37/2019/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Đức H, sinh năm 1981; nơi cư trú: Xóm 2, xã T, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Duy A, sinh năm 1956 và bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1958; bị cáo có vợ là Phạm Thị G, sinh năm 1984; có 02 con, con lớn sinh năm 2002, con nhỏ sinh năm 2014; tiền án: Không; tiền sự: Không; Nhân thân: ngày 27/6/2012 bị Tòa án nhân dân huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội xử phạt 8 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” , đã chấp hành xong hình phạt vào ngày 20/11/2012; bị tạm giữ từ ngày 06/3/2019 đến ngày 12/3/2019 thì chuyển tạm giam cho đến nay.

- Người làm chứng:

+ Anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1984. Địa chỉ: Tổ 12, thị trấn X, huyện X, tỉnh Nam Định.

+ Anh Hoàng Văn K, sinh năm 1990. Địa chỉ: Xóm Cường Phú, xã Đ, huyện Trực ninh, tỉnh Nam Định.

- Người chứng kiến:

+ Ông Đỗ Duy T, sinh năm sinh năm 1960. Địa chỉ: Xóm 2, xã T, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định.

+ Chị Phạm Thị G, sinh năm 1984. Địa chỉ: Xóm 2, xã T, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định.

(Tại phiên tòa có mặt bị cáo, ông T, chị G; vắng mặt anh C, anh K).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trưa ngày 06/3/2019, Nguyễn Đức H đi bộ từ nhà đến khu vực chợ Cầu xã T gặp và mua của một người đàn ông không quen biết 01 gói Heroine và 01 ống ma túy đá với giá 400.000đ mang về nhà cất giấu để bán kiếm lời. Khoảng 13 giờ cùng ngày, Nguyễn Văn C và Hoàng Văn K đến nhà H chơi. C hỏi H muốn mua một ống ma túy đá với giá 300.000đ, H đồng ý bán nên đưa ống ma túy đá trong người cho C và nhận số tiền 300.000đ. Khi C vừa cầm ống ma túy đá cho vào túi quần bên phải thì bị tổ công tác của Phòng cảnh sát tội phạm về ma túy Công an tỉnh Nam Định phát hiện, bắt quả tang. Tổ công tác thu giữ trong túi quần bên phải của C 01 ống hút bằng nhựa màu da cam hàn kín hai đầu bên trong có chứa các hạt tinh thể dạng rắn màu trắng (niêm phong ký hiệu M). C khai ống Methampheramin vừa mua của H với giá 300.000đ để sử dụng cho bản thân; thu giữ của H số tiền 300.000đ, H khai nhận đó là số tiền vừa bán ma túy cho C. Ngoài ra, tổ công tác còn thu giữ của H 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobistar vỏ màu vàng đã cũ số IMEI 135334121132699 kèm theo 2 sim số 0931650153 và 0904923560.

Khám xét khẩn cấp nơi ở, Nguyễn Đức H đã tự giác giao nộp 01 gói ni lông màu trắng bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng (niêm phong ký hiệu K), H khai nhận đó là Heroine cất giấu để bán kiếm lời. Nguyễn Đức H đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình.

Tại bản kết luận giám định số 252/GĐKTHS ngày 07/3/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận:

- Mẫu rắn dạng tinh thể màu trắng trong 01 đoạn ống hút nhựa màu da cam hàn kín hai đầu được niêm phong ký hiệu M gửi giám định là ma túy, loại ma túy Methampheramin, có khối lượng 0,047 gam.

- Mẫu bột dạng cục màu trắng trong 01 túi ni lông màu trắng được niêm phong ký hiệu K gửi giám định là chất ma túy, loại ma túy Heroine, có khối lượng 0,370 gam.

Bản cáo trạng số 35/CT-VKSHH ngày 29/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hải Hậu truy tố bị cáo Nguyễn Đức H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo thành khẩn khai nhận đã thực hiện hình vi như nội dung vụ án đã nêu ở trên.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hải Hậu giữ quyền công tố tại phiên toà giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo từ 24 đến 30 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 06/3/2019; đề nghị Hội đồng xét xử xử lý vật chứng của vụ án đã thu giữ trong quá trình điều tra và không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Trong phần tranh luận, Kiểm sát viên, bị cáo không có ý kiến tranh luận.

Lời nói sau cùng, bị cáo ăn năn, hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hải Hậu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hải Hậu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của bị cáo Nguyễn Đức H tại phiên toà được chứng minh bằng biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định, lời khai của người làm chứng, người chứng kiến cùng các tài liệu khác đã được lưu trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận:

[3] Khoảng 13 giờ ngày 06/3/2019, Nguyễn Đức H đang bán trái phép 01 gói Methampheramin có khối lượng 0,047 gam cho Nguyễn Văn C tại nhà riêng ở xóm 2, xã T, huyện Hải Hậu thì bị tổ công tác của Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Nam Định phát hiện bắt quả tang. Ngoài ra, H còn cất giấu trong nhà 01 gói Heroine có khối lượng 0,370 gam để bán kiếm lời. Như vậy, Nguyễn Đức H đã mua bán trái phép 02 chất ma túy là Methampheramin và Heroine có tổng trọng lượng là 0,417 gam.

[4] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện thì thấy: Hành vi mua bán trái phép chất ma tuý mà bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi đó không những xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý mà còn gây mất trật tự trị an xã hội. Ma tuý đã và đang gây tác hại xấu cho sức khoẻ của người sử dụng; làm suy thoái nòi giống, phẩm giá con người, làm khánh kiệt về kinh tế, phá hoại hạnh phúc gia đình và chính ma tuý là nguyên nhân làm gia tăng nhiều loại tội phạm, làm lan truyền nhiều loại bệnh dịch nguy hiểm. Do đó, cần phải xử lý nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và đấu tranh, phòng ngừa chung.

[5] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy: Trong vụ án này, bị cáo Nguyễn Đức H không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn, hối lỗi; bố đẻ bị cáo là bệnh binh đang được hưởng chế độ chính sách của Nhà nước; gia đình bị cáo có H cảnh kinh tế khó khăn được chính quyền địa phương xác nhận nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do đó, Hội đồng xét xử có thể xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình như đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà hôm nay là phù hợp.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có công việc ổn định, gia đình bị cáo có H cảnh kinh tế khó khăn được chính quyền địa phương xác nhận nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.

[7] Đối với Nguyễn Văn C mua của bị cáo H 01 ống Methamphetamine có trọng lượng 0,047 gam vào ngày 06/3/2019 để sử dụng cho bản thân. Xét thấy hành vi của C không đủ yếu tố cấu thành tội tàng trữ trái phép chất ma túy nên Công an huyện Hải Hậu đã xử lý hành chính đối với C là phù hợp.

[8] Đối với Hoàng Văn K là người đi cùng với C đến nhà H ngày 06/3/2019 nhưng K không biết và không chứng kiến việc mua bán ma túy giữa C và H, do vậy không có căn cứ để xử lý đối với K.

[9] Đối với người đàn ông đã bán Methamphetamine và Heroine cho bị cáo H vào ngày 06/3/2019 tại khu vực chợ Cầu xã T, do H không biết tên, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ để xác minh, xử lý.

[10] Về xử lý vật chứng:

- Số tiền 300.000đ do H bán ma túy cho C mà có, xét cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- Toàn bộ số Methamphetamine và Heroine cơ quan điều tra đã thu giữ trong vụ án là vật cấm lưu hành, xét cần tịch thu tiêu huỷ mẫu vật H trả sau giám định.

- Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Mobiistar vỏ màu vàng đã cũ là tài sản hợp pháp của bị cáo, không liên quan đến việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo là phù hợp pháp luật.

[9] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức H 24 (hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 06/3/2019.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) do bị cáo Nguyễn Đức H phạm tội mà có.

- Tịch thu tiêu huỷ 02 phong bì thư niêm phong H trả mẫu vật sau giám định số 252/GĐKTHS ngày 07/3/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Đức H 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobiistar vỏ màu vàng đã cũ số IMEI 135334121132699 kèm theo 2 sim số 0931650153 và 0904923560.

(Các vật chứng nêu trên được mô tả như Biên bản giao nhận vật chứng, giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hải Hậu và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hải Hậu lập cùng ngày 03/6/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hải Hậu).

3. Án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án buộc bị cáo Nguyễn Đức H phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hạn thi hành án thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

173
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2019/HS-ST ngày 26/06/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:37/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hải Hậu - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về