Bản án 36/2019/HSST ngày 28/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TP BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 36/2019/HSST NGÀY 28/02/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 02 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 12/2019/TLST-HS ngày 17 tháng 01 năm 2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2019/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: NGUYỄN BÁ P (tên gọi khác: P N); sinh ngày: 15/7/1993, tại tỉnh: Đắk Lắk; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: X , Y, phường TN, thành phố B, Đắk Lắk; Chỗ ở hiện nay (tạm trú): Z, S, phường TT, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 02/12; con ông: Nguyễn Tuyên Đ - sinh năm 1971 và con bà: Nguyên Thị Thu H (đã chết); bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án: 01 tiền án. Ngày 22/10/2015, bị Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, ngày 30/6/2018 chấp hành xong hình phạt.

Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/12/2018 đến nay. Bị cáo đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Buôn Ma Thuột. Có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Ngô Hồng Kỳ D - sinh ngày 13/8/1999; địa chỉ: QT, thành phố B, Đắk Lắk. (có mặt).

* Người chứng kiến:

1. Ông Trần Văn A - sinh năm 1946; địa chỉ: LTV, phường TT, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. (vắng mặt).

2. Anh Nguyễn Văn Đ1 - sinh năm 1996; địa chỉ: Thôn K, xã HT, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (vắng mặt)

NNỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Bá P là người nghiện ma túy, loại Methamphetamine từ năm 2013. Vào khoảng 19 giờ ngày 11/12/2018, P gọi điện thoại cho người tên CE (không rõ nhân thân lai lịch) hỏi mua ma túy đá với số tiền 2.800.000 đồng thì CE đồng ý. Sau đó, CE mang 12 gói ma túy đi đến Z, S, phường TT, thành phố B cho P. Sau khi mua được ma túy thì P cất giấu ma túy vào trong hộp nhựa để trên bếp để sử dụng dần. Đến khoảng 16 giờ ngày 12/12/2018, Nguyễn Văn Đ1 đến phòng trọ chơi, P lấy ra để sử dụng thì bị Công an thành phố Buôn Ma Thuột bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tang vật thu giữ gồm 12 gói nylon chứa chất rắn dạng tinh thể được niêm phong theo quy định.

Quá trình điều tra cơ quan cảnh sát điều tra còn thu giữ 01 bình thủy tinh có gắn 02 ống thủy tinh và 01 điện thoại di động Iphone Model A1687 không gắn sim.

Tại bản kết luận giám định số 1118/GĐMT-PC09 ngày 18/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk, kết luận: Chất rắn dạng tinh thể đựng trong 12gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 3,5670 gam, loại Methamphetamine. Mầu vật còn lại sau giám định có khối lượng 3,4758 gam, được niêm phong.

Quá trình điều tra cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột vẫn chưa xác minh được nhân thân, lai lịch của đối tượng tên CE. Vì vậy, cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã tách hành vi bán trái phép chất ma túy của đối tượng tên CE ra khỏi vụ án để tiếp tục điều tra, xác minh xử lý sau.

Đối với chiếc điện thoại di động hiệu Nokia màu đen của bị cáo đã sử dụng để liên lạc với đối tượng CE để mua ma túy, quá trình điều tra bị cáo khai do hết tiền đã bán cho một người đàn ông (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) cơ quan cảnh sát điều tra không thu giữ được nên đã tách ra khỏi vụ án để tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo Nguyễn Bá P, Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức cảnh cáo.

Đối với anh Nguyễn Văn Đ1 đến phòng trọ của P chơi nhưng không biết việc P cất giấu ma túy tại phòng trọ nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý. Về hành vi sử dụng ma túy của Nguyễn Văn Đ1, Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức cảnh cáo.

Đối với ông Chữ Anh T là chủ nhà trọ không biết việc Nguyễn Bá P cất giấu ma túy nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột không đề cập xử lý.

Tại bản cáo trạng số 39/CT-VKS ngày 16/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã truy tố bị cáo Nguyễn Bá P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Bá p đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Chị Ngô Hồng Kỳ D đề nghị Hội đồng xem xét trả lại chiếc điện thoại di động hiệu Iphone hiện đang bị tạm giữ là tài sản của chị cho bị cáo mượn.

Quá trình tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội của bị cáo và giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo Nguyễn Bá P và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm S khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Bá P mức án từ 04 năm đến 04 năm 06 tháng tù.

- Về xử lý vật chứng: Đối với 3,4758 gam ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định và 01 bình thủy tinh có gắn 02 ống thủy tinh và là tang vật của vụ án đề nghị tiêu hủy.

Đối với chiếc điện thoại di động hiệu Iphone Model A1687 đây là tài sản của chị Ngô Hồng Kỳ D không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên đề nghị trả lại cho chị Duyên là chủ sở hữu hợp pháp.

Bị cáo không bào chữa, tranh luận gì, mà chỉ xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, tuân thủ đầy đủ theo quy định của thủ tục tố tụng về thu thập tài liệu chứng cứ của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến không ai có ý kiến hoặc khiếu nại đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh và hình phạt:

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai mà bị cáo đã khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ căn cứ pháp lý để kết luận: Vào khoảng 16 giờ 00 phút ngày 12/12/2018, tại Z, S, phường TT, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, Nguyên Bá P đã có hành vi tàng trữ trái phép 3,5670 gam ma túy, loại Methamphetamine để sử dụng thì bị cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk phát hiện bắt quả tang. Hành vi của bị cáo Nguyễn Bá P đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c. Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

…”

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Bá P là nguy hiểm. Bởi lẽ: Bị cáo là người nghiện ma túy, biết được tác hại của ma túy đối với sức khỏe của con người, bị cáo nhận thức được rằng các chất ma túy do nhà nước độc quyền quản lý, bị cáo có 01 tiền án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích, tuy nhiên để thỏa mãn nhu cầu cá nhân của mình bị cáo đã cố ý tiếp tục thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thể hiện thái độ xem thường pháp luật cao độ của bị cáo, hành vi phạm tội của bị cáo không những xâm phạm đến quy định của nhà nước về độc quyền quản lý chất ma túy mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa P. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội mà mình đã thực hiện. Hội đồng xét xử thấy cần phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định có như vậy mới đủ tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo và răn đe phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

Đối với anh Nguyễn Văn Đ1 đến phòng trọ của bị cáo P chơi nhưng không biết bị cáo P mua ma túy từ CE, cũng không biết việc bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy tại phòng trọ do đó cơ quan cảnh sát điều tra không xem xét xử lý là phù hợp nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận.

Đối với ông Chữ Anh T là người cho bị cáo P thuê phòng trọ tại S, phường TT, thành phố B, ông T không biết việc bị cáo tàng trữ ma túy tại phòng trọ, do đó cơ quan cảnh sát điều tra không xem xét xử lý là phù hợp nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 22/10/2015, bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố B xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” ngày 30/6/2018 bị cáo chấp hành xong hình phạt, đến ngày 12/12/2018 bị cáo bị bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Như vậy, bị cáo phạm tội khi chưa được xóa án tích. Do đó, bị cáo phạm tội thuộc trường hợp “Tái phạm” được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử cần áp dụng khi xem xét quyết định hình phạt đối với bị cáo để thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo ăn năn hối cải về hành vi của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử cần áp dụng khi xem xét quyết định hình phạt đối với bị cáo để thể hiện sự khoan hồng, nhân đạo của pháp luật.

[5] Về vật chứng của vụ án:

- Đối với 3,4758 gam ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định trong gói niêm phong số 809/GĐMT-PC09 ngày 17/9/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk là tang vật của vụ án nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 bình thủy tinh có gắn 02 ống thủy tinh là dụng cụ bị cáo sử dụng để hít ma túy nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với chiếc điện thoại di động hiệu Iphone Model A1687 đây là tài sản của chị Ngô Hồng Kỳ D cho bị cáo mượn để sử dụng, bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội nên cần trả lại chị Ngô Hồng Kỳ D là chủ sở hữu hợp pháp.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 260, Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự;

[1] Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Bá P (tên gọi khác: P N) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

[2] Về điều luật áp dụng và hình phạt:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Bá P (tên gọi khác: P N) 03 (ba) năm 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 12/12/2018.

[3] Về xử lý vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 3,4758 gam ma túy loại Methamphetamine và 01 bình thủy tinh có gắn 02 ống thủy tinh là tang vật của vụ án.

- Trả lại cho chị Ngô Hồng Kỳ D 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone Model AI 687.

(Vật chứng đang được lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Buôn Ma Thuật, tỉnh Đắk Lắk, đặc điểm cụ thể theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/01/2019).

[4] Án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Bá p phải chịu 200.000 (hai trăm) ngàn đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

[5] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 36/2019/HSST ngày 28/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:36/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về