Bản án 36/2019/HSST ngày 21/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC KẠN, TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 36/2019/HSST NGÀY 21/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21/8/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bắc Kạn, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 40/2019/HSST ngày 17/7/2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 37/QĐXXST- HS, ngày 06/8/2019, đối với bị cáo:

Phạm Văn B - Sinh ngày 02/8/1990, tại H; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn 1, xã Đ, thành phố P, tỉnh H; chỗ ở hiện nay: Thôn C, xã P, huyện B, tỉnh B; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt nam; con ông Phạm Quang Đ và bà Trịnh Thị H; chưa có vợ, con; tiền sự: Không; tiền án: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 27/3/2019 đến ngày 04/4/2019 được tại ngoại - Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ 50 phút ngày 27/3/2019, tại khu vực phường Đức Xuân, thành phố Bắc Kạn, tổ công tác của đội CSĐT tội phạm về kinh tế và ma túy - công an thành phố Bắc Kạn bắt quả tang Phạm Văn B về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ của Phạm Văn B 01 gói được gói bằng giấy một mặt màu trắng bạc, một mặt màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng có khối lượng 0,15 gam (không phẩy mười năm gam); 01 xi lanh nhựa, 01 lọ nước cất đều chưa qua sử dụng; tạm giữ của Phạm Văn Bình 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng đã qua sử dụng và 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, màu trắng đen, BKS 20B1 – 3xx.xx đã qua sử dụng.

Tại bản kết luận giám định số 65/KTHS - MT ngày 05/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu M1 gửi giám định là ma túy, loại Heroin, có khối lượng là 0,150g (không phẩy một năm không gam).

Tại cơ quan điều tra Phạm Văn B khai nhận: Khoảng 08 giờ ngày 27/3/2019 Phạm Văn B điều khiển xe mô tô BKS 20B1 – 3xx.xx từ thôn C, xã P, huyện B, tỉnh B xuống thành phố Bắc Kạn để tìm mua ma túy sử dụng. Khoảng 09 giờ 40 phút B xuống đến khu vực bến xe khách Bắc Kạn thuộc tổ 9B, phường Đức Xuân, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn. Tại đây, B mua được 01 gói ma túy với giá 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) của một người đàn ông (không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể). Sau đó B đi tìm chỗ để sử dụng ma túy, nhưng chưa kịp sử dụng thì bị Công an bắt quả tang cùng vật chứng.

Với các hành vi nêu trên, tại bản cáo trạng số 35/CT-VKSNDTP, ngày 16/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Kạn đã truy tố bị cáo Phạm Văn B về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249/Bộ luật hình sự.

Điều luật có nội dung:

1, Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù một năm đến năm năm.

a,…

c, Heroine…có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Kạn vẫn giữ nguyên bản cáo trạng đã truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phạm Văn B phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Về hình phạt: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS, xử phạt bị cáo Phạm Văn B từ 12 tháng đến 15 tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 27/3/2019 đến ngày 04/4/2019.

Về vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47/BLHS và Điều 106/Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 02 phong bì ký hiệu T65 và M2 còn nguyên dấu niêm phong; 01 xi lanh nhựa và 01 lọ nước cất đều chưa qua sử dụng.

Về án phí: Đề nghị áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Quá trình tranh luận bị cáo không có ý kiến gì tranh luận với đại diện Viện kiểm sát và bị cáo nói lời sau cùng là xin Hội đồng xét xử xem xét được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Ngày 27/3/2019 Phạm Văn B có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là Heroine có khối lượng là 0,15g (Không phẩy mười lăm gam) với mục đích để bản thân sử dụng, không nhằm mục đích để mua bán. Do đó hành vi của Phạm Văn B đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS.

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo Phạm Văn B đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu ở trên.

Tổng hợp các chứng cứ lại, đánh giá diễn biến khách quan của vụ án thấy việc truy tố, xét xử bị cáo Phạm Văn B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Xét tính chất hành vi của bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm đến những quy định của Nhà nước về chế độ quản lý các chất ma túy; gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an xã hội tại địa phương. Vì vậy cần phải xử lý bằng pháp luật hình sự nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự và không phải chịu một tình tiết tăng nặng nào, được hưởng tình tiết giảm nhẹ là “Thành khẩn khai báo” được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS.

[3] Hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có tài sản và nguồn thu nhập nào, khi áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền thì không có tính khả thi. Vì vậy không áp dụng đối với bị cáo.

[4] Về vật chứng: Quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã tạm giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave BKS 20B1-3xx.xx và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphon màu trắng đã qua sử dụng, qua điều tra đã xác định được chiếc xe mô tô và chiếc điện thoại trên trên là tài sản của ông Phạm Quang Đ (là bố đẻ của bị cáo B), ông Đ không biết bị cáo B sử dụng vào việc phạm tội nên Cơ quan điều tra đã trả lại xe và điện thoại cho ông Đ là đúng theo quy định của pháp luật.

Số vật chứng còn lại gồm: 02 phong bì ký hiệu T65 và M2 còn nguyên dấu niêm phong; 01 xi lanh nhựa và 01 lọ nước cất chưa qua sử dụng, không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

(Tình trạng vật chứng như biên bản bàn giao giữa Công an và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Bắc Kạn).

[5] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[6] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên và tính hợp pháp của các chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập: Các hành vi, quyết định tố tụng và các chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì về hành vi, quyết định trên. Do đó các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp và đúng theo quy định của pháp luật.

[7] Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo Phạm Văn B, do bị cáo không biết họ tên, địa chỉ cụ thể của người này, nên Cơ quan điều tra không đủ cơ sở để xử lý.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1, Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn B phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51/ BLHS.

Xử phạt bị cáo Phạm Văn B 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bắt thi hành án. Được trừ thời gian đã tạm giữ từ ngày 27/3/2019 đến ngày 04/4/2019.

2,Về vật chứng:

- Áp dụng Điều 47/BLHS và Điều 106/BLTTHS. Tịch thu tiêu hủy gồm: 02(Hai) phong bì ký hiệu T65 và M2 còn nguyên dấu niêm phong; 01 xi lanh nhựa và 01 lọ nước cất chưa qua sử dụng.

(Tình trạng vật chứng như biên bản bàn giao giữa Công an và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Bắc Kạn ngày 16/8/2019).

3, Về án phí:

- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Phạm Văn B phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo. Báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 36/2019/HSST ngày 21/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:36/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Kạn - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về