Bản án 34/2018/HSST ngày 15/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N - TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 34/2018/HSST NGÀY 15/06/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 36/2018/HSST ngày 18 tháng 5 năm 2018; Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 34/2018/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 6 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và Tên: Nguyễn Đại V, (Tên gọi khác: Không).

Sinh năm 1982, tại G - Ninh Bình; Trú tại: thôn C, xã G, huyện G, tỉnh Ninh Bình; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: 9/12; Nghề nghiệp: Lái xe; Con ông Nguyễn Văn C và bà Lê Thị C; Vợ: Đào Thị H; Con: có 01 con sinh năm 2008;

Tiền án, tiền sự: Chưa có.

Bị cáo bị bắt tạm giữ kể từ ngày 12/04/2018 chuyển tạm giam từ ngày 14/04/2018. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình, (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 12/04/2018, Nguyễn Đại V là lái xe thuê cho ông Đinh Văn L ở thôn T, xã G, huyện G, tỉnh Ninh Bình điều khiển xe ô tô tải nhãn hiệu Cửu Long biển kiểm soát 3.C-.....88 đi từ xã G, huyện G, tỉnh Ninh Bình đến huyện Y, tỉnh Hòa Bình để chở đất. Khi đi đến đường 477 thuộc địa phận thôn L 1, xã L, huyện N thì V quan sát thấy 01 người nam giới đang đứng ở ven đường. Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên V đã dừng xe ô tô tải biển kiểm soát 3.C-.....88 ở ven đường rồi đi bộ đến gặp người nam giới (Việt không biết tên, tuổi, địa chỉ) hỏi “Anh có ma túy không bán cho em hai trăm” - Ý V hỏi mua Heroine của người nam giới với giá 200.000đ. Người nam giới đồng ý nói “Có” và đưa cho V 01 gói Heroine được gói ngoài bằng giấy bạc mầu vàng, V cầm lấy gói Heroine và đưa lại cho người nam giới 200.000đ. Nguyễn Đại V mở gói heroine vừa mua để kiểm tra xác định bên trong đúng là Heroine thì gói lại cầm trên tay phải rồi đi bộ về phía xe ô tô tải biển kiểm soát 3.C-.....88 còn người nam giới đi luôn. Khi đi đến gần xe ô tô tải biển kiểm soát 3.C-.....88 thì V thấy Tổ công tác Công an huyện N đang làm nhiệm vụ tuần tra đi đến, do sợ bị phát hiện cất giấu Heroine trên người nên Nguyễn Đại V đã thả gói Heroine đang cầm trên tay xuống mặt đường và bị Tổ công tác phát hiện bắt quả tang, thu giữ 01 gói Heroine được gói ngoài bằng giấy bạc mầu vàng, V khai nhận đó là gói Heroine vừa mua về nhằm mục đích sử dụng. Ngoài ra Tổ công tác còn thu giữ của Việt 01 điện thoại di động nhãn hiệu BUK vỏ mầu đen kèm sim thuê bao 09........29 và 01 xe ô tô tải nhãn hiệu Cửu Long biển kiểm soát 3.C-.....88.

Cân xác định trọng lượng chất bột dạng cục màu trắng chứa trong 01 gói nhỏ được gói ngoài bằng giấy bạc màu vàng thu giữ của Nguyễn Đại V có trọng lượng 0,13 gam ký hiệu M để gửi trưng cầu giám định về khối lượng và loại chất ma túy.

Tại bản kết luận giám định số 68/KLGĐ-PC54-MT ngày 13/04/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận: “Mẫu chất bột dạng cục mầu trắng ký hiệu M gửi giám định có khối lượng 0,1287 gam (không phẩy một nghìn hai trăm tám bảy gam) là ma túy, loại Heroine”;

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Đại V đã khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định trên.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Nguyễn Đại V đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Tại bản cáo trạng số 33/CT-VKSNQ- HS ngày 18/5/2018 Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố bị cáo Nguyễn Đại V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự (BLHS).

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS; xử phạt Nguyễn Đại V từ 12 đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 12/4/2018.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS); Tịch thu tiêu hủy 0,1009 gam Heroine và toàn bộ vỏ bao gói trong gói niêm phong ban đầu, tất cả được niêm phong trong một phong bì ghi số 68/2018/GĐMT và 01 phong bì niêm phong các vỏ gói ban đầu. Trả lại cho bị cáo Nguyễn Đại V 01 điện thoại di động nhãn hiệu BUK vỏ mầu đen kèm sim thuê bao 09........29.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa Kiểm sát viên, bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Bị cáo không tranh luận gì với lời luận tội của Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa là khách quan phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án như biên bản bắt người phạm tội quả tang (BL: 27-30); Biên bản niêm phong vật chứng đã thu giữ (BL: 31); kết luận giám định số 68/KLGĐ-PC54-MT ngày 13/04/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình (BL: 38). Như vậy đã có đủ căn cứ kết luận khoảng 10 giờ 30 phút ngày 12/04/2018 tại thôn Lạc 1, xã L, huyện N, tỉnh Ninh Bình, Nguyễn Đại V có hành vi cất giữ trái phép 01 gói Heroine có khối lượng 0,1287 gam nhằm mục đích sử dụng bị phát hiện bắt giữ (Heroine có số thứ tự 20 thuộc bảng danh mục I - Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính Phủ quy định danh mục chất ma túy và tiền chất).

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về việc cất giữ chất ma tuý; Bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi, trách nhiệm hình sự đồng thời biết rất rõ tác hại của ma túy và việc mua bán, tàng trữ, sử dụng ma tuý bị nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện tội phạm. Đối chiếu với quy định của pháp luật hình sự, thấy: hành vi, tội danh và điều khoản áp dụng tại bản cáo trạng, lời luận tội, các chứng cứ buộc tội bị cáo như Kiểm sát viên trình bày tại phiên toà là có căn cứ. Do đó, hành vi tàng trữ trái phép 0,1287 gam Heroine nhằm mục đích sử dụng của bị cáo Nguyễn Đại V đã phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Về tình tiết tăng nặng: bị cáo không có.

Về tình tiết giảm nhẹ: quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

Cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần xử phạt bị cáo một mức hình phạt, tương xứng với tính chất mức độ phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để tạo điều kiện cho bị cáo cai nghiện, học tập, cải tạo thành người có ích cho gia đình và xã hội.

Bị cáo tàng trữ ma tuý để sử dụng cho bản thân, không nhằm mục đích vụ lợi vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng:

- Đối với 0,1009 gam Heroine còn lại và toàn bộ vỏ bao gói trong gói niêm phong ban đầu, tất cả được niêm phong trong một phong bì ghi số 68/2018/GĐMT do cơ quan giám định đã hoàn lại, là vật Nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu huỷ, theo quy định tại Điều 47 BLHS và khoản 2 Điều 106 BLTTHS.

- Đối với 01 phong bì niêm phong các vỏ gói ban đầu không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu huỷ, theo quy định tại Điều 47 BLHS và khoản 2 Điều 106 BLTTHS.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu BUK vỏ mầu đen kèm sim thuê bao 09........29 thu giữ của bị cáo xác định là tài sản hợp pháp của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo cần trả lại cho bị cáo, theo quy định tại khoản 3 Điều 106 BLTTHS.

[3] Các vấn đề khác:

- Đối với 01 xe ô tô tải nhãn hiệu Cửu Long kiểm soát 3.C-.....88 thu giữ của Nguyễn Đại V, quá trình điều tra xác định đây tài sản hợp pháp của ông Đinh Văn L, Cơ quan điều tra đã trả lại tài sản cho ông Đinh Văn L là phù hợp, ông Lý không có đề nghị gì khác.

- Về nguồn gốc ma túy: Nguyễn Đại V khai mua của một người đàn ông không biết tên tuổi địa chỉ ở khu vực cổng chùa thuộc thôn Lạc 1, xã L, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N không đủ không đủ căn cứ để xử lý theo quy định của pháp luật.

- Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Đại V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”; Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đại V 15 (Mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 12/4/2018.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS; Căn cứ khoản 2, khoản 3 Điều 106 BLTTHS;

- Tịch thu tiêu huỷ: 02 phong bì thư niêm phong.

- Trả lại cho Nguyễn Đại V 01 điện thoại kèm sim thuê bao 09........29.

(Chi tiết vật chứng theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 23/5/2018 giữa Cơ quan CSĐT công an huyện N và Chi cục Thi hành án dân sự huyện N).

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 các điều 135, 136 của BLTTHS; áp dụng Điều 21, Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu án phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Đại V phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 34/2018/HSST ngày 15/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:34/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nho Quan - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về