Bản án 33/2020/HS-ST ngày 27/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM BẢNG, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 33/2020/HS-ST NGÀY 27/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 33/2020/HS-ST ngày 07 tháng 5 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 34/2020/QĐXXST- HS ngày 07 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Quang T, sinh năm 1999, tại Hà Nam; nơi cư trú: Thôn S, xã N, huyện K, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Quang L và bà Nguyễn Thị G; có vợ Trương Thanh Th và 01 con sinh năm 2019; tiền sự, tiền án: Không; tạm giữ ngày 02/02/2020; tạm giam ngày 05/02/2020. Có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo: Ông Phạm Đại V- Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Hà Nam. Có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Quang L, sinh năm 1978; nơi cư trú: Thôn S, xã N, huyện K, tỉnh Hà Nam. Có mặt.

* Người làm chứng: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1958. Ông Dương Xuân H, sinh năm 1962; cùng nơi cư trú: Thôn S, xã N, huyện K, tỉnh Hà Nam. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 16 giờ ngày 02/02/2020, Nguyễn Quang T, sinh năm 1999; nơi cư trú: Thôn S, xã N, huyện K, tỉnh Hà Nam điều khiển xe mô tô BKS 21T7-6793 đến nhà Trịnh Huy S ở thôn T, xã Đ, huyện K, tỉnh Hà Nam mục đích đi mua ma túy để sử dụng. Khi đến nhà S, do T và S đều không có tiền nên S gọi điện thoại cho một người nào đó thì khoảng 10 phút sau có một người đàn ông khoảng 45 tuổi đi xe đạp cào cào đến nhà S và nói với S: "Tao có năm sáu trăm thôi, thằng này có tin tưởng được không". S nói: "Bạn cháu mà, chú yên tâm". Người đàn ông lấy ra một tờ mệnh giá 500.000đồng và một tờ mệnh giá 100.000đồng đưa cho T và nói: "Mua được hàng mang về đây chơi chú chờ ở đây". T cầm tiền rồi điều khiển xe mô tô BKS 21T7-6793 đi lên địa phận huyện P, thành phố Hà Nội mua của một người phụ nữ không quen biết 500.000đồng được một gói nhỏ bên ngoài bọc nilon màu đen. T cầm ở tay trái rồi điều khiển xe mô tô đi về đến cổng nhà S thì bị công an xã Đ phát hiện và bắt quả tang. Thu tại lòng bàn tay trái của Nguyễn Quang T 01 gói nhỏ bên ngoài bọc lớp nilon màu đen, tiếp đến là lớp giấy trắng có dòng kẻ, trong là các cục chất bột màu trắng đục, niêm phong kí hiệu QT01. Thu tại túi áo khoác phía trước bên phải 01 tờ tiền mệnh giá 100.000đồng, niêm phong kí hiệu QT02. Thu tại túi quần phía trước bên trái 01 điện thoại Nokia 105 màu đen, niêm phong kí hiệu QT03 và tạm giữ 01 xe mô tô BKS 21T7-6793. Khám xét chỗ ở của Nguyễn Quang T không phát hiện thu giữ gì.

Tại bản kết luận giám định số 19/PC09-MT ngày 04/02/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hà Nam kết luận: Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì niêm phong ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,287gam loại Heroine.

Về nguồn gốc số ma túy: Nguyễn Quang T khai nhận mua của người phụ nữ không quen biết tại huyện P, thành phố Hà Nội. Do T không biết họ, tên đệm, tuổi, địa chỉ cụ thể cùng đặc điểm nhận dạng nên cơ quan Cảnh sát điều tra huyện Kim Bảng không có căn cứ để xác minh, làm rõ được.

Tại bản cáo trạng số 36/CT-VKSKB ngày 05/5/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bảng đã truy tố Nguyễn Quang T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố Nguyễn Quang T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt Nguyễn Quang T từ 24 tháng đến 30 tháng tù. Thời hạn tù, tính từ ngày tạm giữ 02/02/2020. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 BLTTHS. Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong nguyên vẹn số 19/PC09-MT của Công an tỉnh Hà Nam, phần kính gửi đề Mẫu vật hoàn trả QT01. Trả lại cho Nguyễn Quang T số tiền 100.000đồng, 01 điện thoại Nokia. Trả lại cho ông Nguyễn Quang L 01 xe mô tô BKS 21T7-6793. Ngoài ra Viện kiểm sát còn đề nghị về án phí, quyền kháng cáo. Người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất theo đề nghị của Viện Kiểm sát. Bị cáo nhất trí với ý kiến của người bào chữa, cáo trạng, luận tội của Viện kiểm sát, bị cáo không tranh luận gì. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan xin được nhận lại chiếc xe mô tô.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Kim Bảng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bảng, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp.

[2] Tại phiên tòa và quá trình điều tra, bị cáo Nguyễn Quang T thành khẩn khai báo. Lời khai nhận tội phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ, niêm phong vật chứng, bản kết luận giám định về chất ma túy, lời khai người làm chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan về thời gian, địa điểm cùng toàn bộ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được đưa ra xem xét tại phiên tòa. Tòa án có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 16 giờ ngày 02/02/2020, tại thôn T, xã Đ, huyện K, tỉnh Hà Nam, Nguyễn Quang T, sinh năm 1999, nơi cư trú: Thôn S, xã N, huyện K, tỉnh Hà Nam cất giữ trái phép 0,287gam Heroine tại lòng bàn tay trái, mục đích để sử dụng thì bị Công an xã Đ, huyện K phát hiện bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng. Hành vi đó của Nguyễn Quang T đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự như cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam đã truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm hại trực tiếp đến khách thể được pháp luật Hình sự Việt Nam bảo vệ đó là chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự, an toàn xã hội. Hành vi cất giữ bất hợp pháp 0,287gam Heroine trong lòng bàn tay trái của bị cáo với mục đích để sử dụng là cất giữ bất hợp pháp, trái quy định của Nhà nước. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội vì chất ma túy không những trực tiếp hủy hoại sức khỏe con người, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội và an ninh quốc gia mà còn là nguyên nhân chủ yếu làm gia tăng tội phạm. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của mình bị pháp luật nghiêm cấm nhưng để thỏa mãn nhu cầu nghiện của bản thân mà vẫn cố ý thực hiện. Do đó hành vi phạm tội của bị cáo phải được xử nghiêm minh để giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho gia đình, xã hội, luôn có ý thức chấp hành chính sách pháp luật đồng thời giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.

[4] Khi quyết định hình phạt Tòa án cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự thấy, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Về tình tiết tăng nặng bị cáo không phải chịu. [5] Về hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai thì bị cáo không có nghề nghiệp, tài sản, là người mắc nghiện ma túy nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về nguồn gốc ma túy thu giữ: Bị cáo khai nhận mua của người phụ nữ không quen biết ở huyện P, thành phố Hà Nội. Do bị cáo không biết họ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể cùng đặc điểm nhận dạng của người đàn ông bán ma túy nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Kim Bảng không xác minh, làm rõ được để xử lý theo quy định của pháp luật.

Đi với Trịnh Huy S và người đàn ông đưa tiền cho T để đi mua ma túy sử dụng. Cơ quan điều tra đã điều tra nhưng không thu thập được tài liệu nào nên không có căn cứ để xử lý theo quy định của pháp luật.

[6] Về xử lý vật chứng: Gồm 01 phong bì niêm phong nguyên vẹn số 19/PC09-MT của Công an tỉnh Hà Nam, phần kính gửi đề Mẫu vật hoàn trả QT01 là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu tiêu hủy. 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen và số tiền 100.000đồng là tài sản hợp pháp của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo. Đối với 01 xe mô tô BKS 21T7- 6793, qua các tài liệu có trong hồ sơ, phiếu tra cứu xe máy vật chứng không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng, được xác định là tài sản do ông Nguyễn Quang L là người quản lý hợp pháp, ông L không biết bị cáo mượn xe sử dụng để đi mua ma túy. Xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án nên trả lại cho ông L chiếc xe mô tô theo quy định Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[7] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Quang T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135; Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự. Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[8] Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các Điều 331; Điều 332 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quang T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Quang T 24 tháng tù. Thời hạn tù, tính từ ngày tạm giữ ngày 02/02/2020.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47; khoản 1, điểm a khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong nguyên vẹn số 19/PC09-MT của Công an tỉnh Hà Nam, phần kính gửi đề Mẫu vật hoàn trả QT01. Trả lại cho bị cáo Nguyễn Quang Tsố tiền 100.000đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, máy đã qua sử dụng. Trả lại cho ông Nguyễn Quang L 01 xe mô tô BKS 21T7-6793, xe đã qua sử dụng (Tình trạng, đặc điểm vật chứng, tài sản như biên bản giao nhận giữa cơ quan điều tra và Chi cục thi hành án dân sự huyện Kim Bảng ngày 07/5/2020).

3. Án phí: Căn cứ Điều 135; Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự. Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Quang T phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án theo quy định các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2020/HS-ST ngày 27/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:33/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Bảng - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về