Bản án 33/2020/HS-ST ngày 07/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH KHÊ, TP ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 33/2020/HS-ST NGÀY 07/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 07 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 23/2020/TLST-HS ngày 24 tháng 02 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2020/QĐXXST–HS ngày 22 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

LÊ VĂN T.

Tên gọi khác: L Sinh ngày 21/01/1993 tại thành phố Đà Nẵng.

Nơi cư trú: Tổ 4x, phường H, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông Trình độ học vấn: Lớp 8/12; dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không - Con ông Lê Văn L và bà Trần Thị B.

- Tiền án: Chưa - Tiền sự:

+ Ngày 04/01/2019 bị Công an phường Hòa Khê ra Quyết định xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

+ Ngày 18/01/2019, Lê Văn T tiếp tục sử dụng trái phép chất ma túy. Do đó, ngày 21/01/2019 bị UBND phường Hòa Khê, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn trong thời hạn 03 tháng, kể từ ngày 21/01/2019 đến ngày 21/4/2019.

- Nhân thân:

+ Năm 2013, bị Tòa án nhân dân quận Thanh Khê xử phạt 2 năm tù giam về tội “Cố ý gây thương tích” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 59/2013/HSST ngày 21/5/2013.

+ Ngày 21/5/2017 bị Công an quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xử phạt hành chính số tiền 5.000.000 đồng về hành vi: “Tàng trữ, cất giấu trong người, phương tiện giao thông các loại dao, búa nhằm mục đích gây thương tích cho người khác” và “Xâm hại sức khỏe người khác” Bị cáo đang bị tạm giam. Hiện có mặt tại phiên tòa.

*Ngưi có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1/ Ông Đào Ngọc D, sinh năm 19xx, trú tại: Tổ xx, phường Hòa Khê, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. (Vắng mặt).

2/ Bà Trần Ngọc Hồng A, trú tại: Tổ xx, phường Thạc Gián, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. (Vắng mặt).

3/ Bà Võ Thị Hoài Ax, sinh năm 19xx, trú tại: Tổ xx, phường An Khê, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 22 giờ 00 phút, ngày 15/11/2019, Lê Văn T điều khiển xe mô tô Yamaha Sirus, mang biển kiểm soát 43X2 – 41xx đi làm tại bến cá Thọ Quang, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng. Tại đây, T nhờ một người chạy xe thồ mua giúp 350.000đ ma túy đá về sử dụng thì người này đồng ý và mua cho T 01 gói nylon bên trong có chứa ma túy đá. T cất giấu gói ma túy trong người rồi tiếp tục làm việc và đi về nhà. Đến khoảng 11 giờ 00 phút ngày 16/11/2019, T đem gói ma túy đá và 01 nỏ thủy tinh điều khiển mô tô trên đến thuê phòng 302 khách sạn Phương Anh 6, số 725 đường Nguyễn Tất Thành, thành phố Đà Nẵng để ở và sử dụng ma túy. Khi vào phòng, T cất giấu gói ma túy trong giỏ đựng điều khiển ti vi được gắn trên tường, phía bên trái đầu giường ngủ và để dụng cụ sử dụng ma túy trên bàn. Đến khoảng 12 giờ 00 phút cùng ngày, Công an phường Xuân Hà, quận Thanh Khê, Thành phố Đà Nẵng kiểm tra phòng 302 bắt quả tang Lê Văn T thu giữ 01 gói nylon kích thước (04x07)cm bên trong chứa tinh thể màu trắng trong giỏ đựng điều khiển ti vi, được niêm phong ký hiệu G. Theo Thành khai gói nylon chứa tinh thể màu trên là ma túy đá của T cất giấu để sử dụng.

Vật chứng thu giữ: - 01 chai nước bằng nhựa bên trong có gắn 01 ống thủy tinh và 01 ống hút;

- 01 điện thoại màu đen bên trên có chữ Mobell;

- 01 Ipad màu trắng, số seri F4KJQ1T3F19M.

- 01 xe máy Yamaha Sirus, mang biển kiểm soát 43X2 - 4174 Theo bản kết luận giám định số 318/GĐ-MT, ngày 22 tháng 11 năm 2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng kết luận: Tinh thể màu trắng trong 01 bì niêm phong ký hiệu G gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine khối lượng mẫu tinh thể: 0,654 gam.

Đi với vật chứng:

- Ma túy hoàn trả sau giám định được niêm phong trong 01 bì niêm phong số 318/GĐ-MT ngày 22/11/2019 có đóng dấu giáp lai của Phòng Kỹ thuật hình sự Công An thành phố Đà Nẵng.

Hiện tất cả vật chứng trên đang được lưu trữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng theo Quyết định chuyển vật chứng số 23/QĐ-VKS ngày 24 tháng 02 năm 2020 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.

Qua thử nước tiểu Lê Văn T dương tính với ma túy.

Tại bản Cáo trạng số 35/CT-VKSTK ngày 24/02/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã truy tố bị cáo Lê Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố nhà nước giữ nguyên quan điểm đã truy tố, đề nghị HĐXX căn cứ vào tính chất vụ án, nhân thân, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra và đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Lê Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và:

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo Lê Văn T mức án từ 12 đến 18 tháng tù.

* Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy: Ma túy hoàn trả sau giám định được niêm phong trong 01 (một) bì niêm phong số 318/GĐ- MT ngày 22/11/2019, có đóng dấu giáp lai của Phân viện khoa học hình sự tại TP Đà Nẵng; 01 chai nước bằng nhựa bên trong có gắn 01 ống thủy tinh và 01 ống hút - Tuyên trả cho Lê Văn T: 01 điện thoại màu đên bên trên có chữ Mobell nhưng tiếp tục quy trữ để bảo đảm thi hành án; 01 Ipad màu trắng, số seri F4KJQ1T3F19M .

Tại phiên tòa bị cáo Lê Văn T khai nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, Kiểm sát viên đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà hôm nay, bị cáo Lê Văn T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu mà cơ quan điều tra đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 22 giờ 00 phút, ngày 15/11/2019, Lê Văn T điều khiển xe môtô Yamaha Sirus, mang biển kiểm soát 43X2 – 41xx đến bến cá Thọ Quang, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng nhờ một người chạy xe thồ mua giúp 350.000đ ma túy đá về sử dụng. Đến khoảng 11 giờ 00 phút ngày 16/11/2019, T đem gói ma túy đá mua được và dụng cụ sử dụng ma túy điều khiển xe mô tô đến thuê phòng 302 khách sạn Phương Anh 6, số 725 đường Nguyễn Tất Thành, thành phố Đà Nẵng. Đến khoảng 12 giờ 00 phút cùng ngày, Công an phường Xuân Hà, quận Thanh Khê, Thành phố Đà Nẵng kiểm tra phòng 302 bắt quả tang Lê Văn T có hành vi tàng trữ trái phép 0,654 gam ma túy Methamphetamine mục đích để sử dụng.

Bản kết luận giám định số 318/GĐ-MT, ngày 22 tháng 11 năm 2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng kết luận: Tinh thể màu trắng trong 01 bì niêm phong ký hiệu G gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine khối lượng mẫu tinh thể: 0,654 gam Do đó, hành vi trên của bị cáo Lê Văn T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, bị cáo Thành phải chịu trách nhiệm hình sự thuộc tình tiết định khung là “Heroin, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR – 11 có khối lượng từ 0,1gam đến dưới 05 gam .” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự như Cáo trạng số 35/CT-VKSTK ngày 24/02/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất vụ án và hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Bị cáo nhận thức rõ tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì muốn có ma túy để thỏa mãn nhu cầu bản thân nên bị cáo đã lao vào con đường phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng đã trực tiếp xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, làm lan tràn tệ nạn ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng và xâm phạm sức khoẻ cũng như sự phát triển bình thường giống nòi của dân tộc, đã làm cho một bộ phận thanh thiếu niên suy đồi phẩm chất, lối sống. Đây là loại tội phạm gây nguy hại lớn, bởi đó là một trong những nguyên nhân làm phát sinh tệ nạn xã hội, là mầm mống phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Chính tác hại đó mà pháp luật nghiêm cấm và nghiêm khắc trừng trị loại tội phạm này. Do đó, cần phải xử phạt bị cáo với mức án nghiêm mới có đủ tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Xét về những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân của bị cáo thì thấy:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, gia đình bị cáo có công với cách mạng. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cần được áp dụng cho bị cáo khi lượng hình.

[5] Hình phạt bổ sung: Xét thấy, bị cáo có thu nhập thấp và không ổn định, điều kiện hoàn cảnh gia đình khó khăn. Bản thân bị cáo phải kiếm sống để nuôi 02 con nhỏ. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo là phù hợp.

[6] Về xử lý vật chứng:

- Đối với Ma túy hoàn trả sau giám định được niêm phong trong 01 bì niêm phong số 318/GĐ-MT ngày 22/11/2019 có đóng dấu giáp lai của Phòng Kỹ thuật hình sự Công An thành phố Đà Nẵng. Hội đồng xét xử thấy đây là vật cấm lưu hành nên cần áp dụng Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự tuyên tịch thu và tiêu huỷ.

- Đối với 01 điện thoại màu đen bên trên có chữ Mobell là tài sản của bị cáo T sử dụng cá nhân không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả cho bị cáo nhưng tiếp tục quy trữ để bảo đảm thi hành án.

- Đối với 01 Ipad màu trắng, số seri F4KJQ1T3F19M, là tài sản của bị cáo T sử dụng cá nhân không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả cho bị cáo T.

- Đối với 01 chai nước bằng nhựa bên trong có gắn 01 ống thủy tinh và 01 ống hút dùng để sử dụng ma túy không có giá trị sử dụng nên cần áp dụng Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự tuyên tịch thu và tiêu huỷ.

Hiện tất cả vật chứng và tài sản trên đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.

Đi với mô tô Yamaha Sirus màu sơn đỏ - bạc, Biển kiểm soát 43X2-41xx, số khung 003409, số máy 003409, chủ sở hữu tên giấy đăng ký xe là chị Trần Ngọc Hồng A, chị A bán chiếc xe máy cho chị Võ Thị Hoài A. Đến ngày 22/8/2019 chị A bán chiếc xe này cho ông Đào Ngọc D nhưng chưa làm thủ tục sang tên đổi chủ. Ngày 15/11/2019 ông D cho T mượn xe máy này để làm phương tiện đi lại nhưng không biết T sử dụng vi phạm pháp luật, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê đã trả cho chủ sở hữu hợp pháp là ông Đào Ngọc D theo Quyết định xử lý vật chứng số 12 ngày 08/01/2020 là có căn cứ, đúng pháp luật.

Lê Văn T có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, Cơ quan Công an quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính là có căn cứ.

Đi với người xe thồ mua giúp ma túy cho Lê Văn T nhưng chưa xác định được nhân thân, lai lịch Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau. Hội đồng xét xử thấy phù hợp.

[7] Án phí HSST: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

[8] Xét các đề nghị của vị đại diện Viện Kiểm Sát tại phiên tòa hôm nay là phù hợp pháp luật.

[9] Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp, đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục pháp luật quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

I. Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Lê Văn T 01 (Một) năm tù. Thời hạn tù kể từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 16/11/2019.

*Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy: Ma túy hoàn trả sau giám định được niêm phong trong 01 bì niêm phong số 318/GĐ-MT ngày 22/11/2019 có đóng dấu giáp lai của Phòng Kỹ thuật hình sự Công An thành phố Đà Nẵng; 01 chai nước bằng nhựa bên trong có gắn 01 ống thủy tinh và 01 ống hút.

- Trả lại cho bị cáo T: 01 điện thoại màu đen bên trên có chữ Mobell nhưng tiếp tục quy trữ để bảo đảm thi hành án.

- Trả lại cho bị cáo T: 01 Ipad màu trắng, số seri F4KJQ1T3F19M. (Toàn bộ số vật chứng nêu trên hiện nay Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 25 tháng 02 năm 2020).

II. Án phí hình sự sơ thẩm:

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Bị cáo Lê Văn T phải chịu 200.000đ.

III. Người tham gia tố tụng có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế theo quy định tại các điều 6,7 và điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi Hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2020/HS-ST ngày 07/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:33/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thanh Khê - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về