Bản án 33/2020/DS-ST ngày 30/06/2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 33/2020/DS-ST NGÀY 30/06/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

 Ngày 30 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 50/2020/TLST-DS ngày 16 tháng 02 năm 2020, về “Tranh chấp Hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2020/QĐXXST-DS ngày 19 tháng 5 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 516/2020/QĐST-DS ngày 09 tháng 6 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP Sài Gòn T:

Địa chỉ: Lầu 8, 166 - 268, Nam Kỳ Khởi Nghĩa, phường 8, Quận 3, thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Đức Thạch D – Tổng giám đốc. Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Anh T (Văn bản ủy quyền ngày 30/7/2019)

2. Bị đơn: Ông Đỗ Hùng T, sinh năm 1980:

 Địa chỉ: 39, tổ 20A, khu phố 3, phường B, thành phố B, tỉnh Đồng Nai:

(Ông T xin vắng mặt; ông T vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, tại bản tự khai và trong quá trình xét xử người đại diện theo ủy quyền ông T trình bày:

Ngày 04/8/2012, Ngân hàng TMCP Sài Gòn T (gọi tắt Ngân Hàng) và ông Đỗ Hùng T (gọi tắt ông T) có thoả thuận Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng (bao gồm giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và bản điều khoản phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của ngân hàng - được gọi chung là Hợp đồng). Căn cứ vào thu nhập của ông T, Ngân hàng đã đồng ý cấp thẻ tín dụng với hạn mức sử dụng là 30.000.000 đồng, mục đích sử dụng thẻ là tiêu dùng cá nhân, lãi suất 2.5%/tháng. Trong quá trình sử dụng thẻ, kể từ thời điểm kích hoạt thẻ đến ngày 23/8/2015, ông T chỉ trả được cho Ngân hàng 15.295.000 đồng còn nợ lại tiền gốc là 4.315.000 đồng và tiền lãi phát sinh, sau đó ông T không trả nợ nữa. Ngân hàng đã nhiều lần gia hạn nợ và yêu cầu ông T trả tiền nợ nhưng ông T vẫn không hợp tác còn có ý lẫn tránh.

Do vậy, Ngân hàng khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân Thành phố B giải quyết: Buộc ông Đỗ Hùng T phải thanh toán cho ngân hàng số tiền còn thiếu là 13.199.000 đồng (trong đó: gốc 4.315.000 đồng, lãi 8.883.000 đồng).

Quá trính thụ lý và giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng và giấy triệu tập, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho ông Đỗ Hùng T đến Tòa làm việc, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông Đỗ Hùng T vắng mặt không có lý do nên không có lời khai.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án được thực hiện đúng quy định.

Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn T, buộc ông Đỗ Hùng T phải trả cho ngân hàng số tiền còn thiếu theo Hợp đồng tín dụng hai bên đã ký. Bị đơn phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Ông Nguyễn Anh T có đơn xin xét xử vắng mặt. Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý, chứng cứ, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, Thông báo hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa theo quy định của pháp luật, nhưng ông Tâm vẫn vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn theo quy định tại Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ pháp luật: Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn T khởi kiện yêu cầu ông Đỗ Hùng T trả lại số tiền đã vay theo các Hợp đồng tín dụng các bên đã ký nên quan hệ pháp luật được xác định là “Tranh chấp Hợp đồng tín dụng”.

[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn T thấy:

Trong quá trình giải quyết vụ án, mặc dù Tòa án không làm việc được với ông Đỗ Hùng Tâm nhưng căn cứ vào Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng (bao gồm giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và bản điều khoản phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của ngân hàng ngày 04/8/2012 ký kết giữa Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn T với ông Đỗ Hùng T và các chứng cứ khác thể hiện tại hồ sơ, nhận thấy đã có đủ cơ sở xác định vào ngày 04/8/2012 Ngân hàng đã đồng ý cấp thẻ tín dụng với hạn mức sử dụng là 30.000.000 đồng là có thật. Quá trình sử dụng kể từ thời điểm kích hoạt thẻ đến ngày 23/8/2015, ông T chỉ trả được cho Ngân hàng 15.295.000 đồng còn nợ lại tiền gốc là 4.315.000 đồng và tiền lãi phát sinh nên căn cứ theo Hợp đồng tín dụng thì ông Tâm đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nợ. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cũng đã niêm yết chứng cứ khởi kiện và các thủ tục tố tụng theo quy định nhưng ông T vẫn không có ý kiến phản hồi, cố tình vắng mặt, do vậy nên xem như ông T đã từ chối cung cấp tài liệu, chứng cứ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình và mặc nhiên thừa nhận nợ.

Từ sự nhận định trên, căn cứ vào các Điều 280, 361, 470 Bộ luật dân sự; Điều 91 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 và ý kiến đề nghị của Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc ông Đỗ Hùng T phải thanh toán cho ngân hàng số tiền còn thiếu là 13.199.000 đồng (trong đó: gốc 4.315.000 đồng, lãi 8.883.000 đồng).

[4] Về án phí DSST:

Ông Đỗ Hùng T phải chịu 660.000 đồng.

[5] Ý kiến đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B tham gia phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 26, Điều 39, Điều 203, Điều 207, Điều 227 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Điều 470 Bộ luật Dân sự; Điều 91 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010.

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn T.

1. Buộc ông Đỗ Hùng T phải phải thanh toán cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn T số tiền còn thiếu là 13.199.000 đồng (Mười ba triệu, một trăm chín mươi chín ngàn đồng). Trong đó: gốc 4.315.000 đồng, lãi 8.883.000 đồng Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo Quyết định của Tòa Án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

Quyết định này được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

2. Về án phí DSST:

Ông Đỗ Hùng T phải chịu 606.000 đồng (Sáu trăm lẻ sáu ngàn đồng) án phí.

Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

233
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2020/DS-ST ngày 30/06/2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:33/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 30/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về