Bản án 33/2019/HS-ST ngày 28/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 33/2019/HS-ST NGÀY 28/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 29/2018/TLST-HS ngày 05 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/2019/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Trịnh Quốc Đ, sinh năm 1973 tại Nam Định;

Nơi ĐKNKTT và nơi cư trú: Thôn Cẩm, xã D, huyện Y, tỉnh Nam Định; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 08/12. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 01-02-2013 bị Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Nam Định xử phạt 24 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Ngày 01-8-2014 Đoàn chấp hành xong án phạt tù trở về địa phương sinh sống; Ngày 13-10-2015 bị Công an phường Văn Miếu, thành phố Nam Định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức cảnh cáo về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy; con ông: Trịnh Quốc Lập (đã chết); con bà: Phạm Thị Lệ, sinh năm: 1937; vợ là: Hoàng Thị Hoa, sinh năm: 1975 và 03 con.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06-6-2019 đến nay. “Có mặt”.

- Người tham gia tố tụng khác:

* Người làm chứng:

1. Anh Trần Văn Đ, sinh năm 1997 “Vắng mặt”.

2. Anh Trần Minh T, sinh năm 1977 “Vắng mặt”.

Đều trú tại: Xóm 3, xã K, huyện V, tỉnh Nam Định.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do cần ma túy để sử dụng nên khoảng 09 giờ ngày 06-6-2019, Trịnh Quốc Đ đi bộ một mình từ nhà ra đường quốc lộ 38B, rồi đi nhờ xe mô tô của một người đi đường ra khu vực xã K, huyện V để tìm mua ma túy. Khi đến khu vực xóm 3, xã K, huyện V; Đ xuống xe và đi bộ một đoạn thì gặp một người đàn ông khoảng 45 tuổi (không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể của người này) đang đứng một mình ở lề đường bên phải theo hướng mình đi, đoán người này có ma túy bán nên Đ đã đi đến gần hỏi “Anh có ma túy đá bán không, bán cho em 200.000đồng”, người đàn ông này trả lời “Có”, Đ liền lấy 200.000 đồng đưa cho người đàn ông này, rồi nhận gói ma túy của người này bỏ vào túi quần bên trái phía trước đang mặc. Sau khi mua được ma túy, Đ đi bộ theo đường cũ để về nhà. Khi đang đi bộ thì Đ bị lực lượng Công an huyện V đang làm nhiệm vụ tại đây phát hiện có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy nên đã yêu cầu kiểm tra, do trong túi quần bên trái phía trước đang mặc có ma túy, biết không thể che giấu được hành vi của mình nên Đ đã tự giác giao nộp cho Cơ quan Công an huyện V 01 gói nhỏ có đặc điểm vỏ bên ngoài là lớp ni lông màu trắng, bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng. Cơ quan Công an huyện V đã thu giữ niêm phong vật chứng gói ma túy, ký hiệu M1.

Ngày 06-6-2019 Cơ quan CSĐT Công an huyện V có quyết định trưng cầu giám định 01 gói ma túy đã thu giữ của Đ. Ngày 07-6-2019 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định có kết luận số 562/GĐKTHS kết luận mẫu chất rắn dạng tinh thể màu trắng trong một gói nhỏ vỏ ngoài là ni lông màu trắng được niêm phong ký hiệu M1 gửi giám định là ma túy. Loại ma túy: Methamphetamine. Khối lượng mẫu M1: 0,224 gam.

Tại bản cáo trạng số 32/CT-VKSVB ngày 02-8-2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh Nam Định đã truy tố Trịnh Quốc Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Trịnh Quốc Đ đã thành khẩn khai nhận về toàn bộ hành vi của mình như nội dung nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V: Giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Trịnh Quốc Đ về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo Trịnh Quốc Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị xử phạt bị cáo Trịnh Quốc Đ từ 24 đến 30 tháng tù;

- Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo vì mục đích tàng trữ ma túy của bị cáo là để sử dụng.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 47 của Bộ luật Hình sự, đề nghị: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy đã thu giữ.

- Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V, của Điều tra viên; của Viện kiểm sát nhân dân huyện V, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ và tội danh đối với hành vi của bị cáo: Hành vi của bị cáo được chứng minh bằng lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa; biên bản bắt người phạm tội quả tang; lời khai của người làm chứng; bản kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Nên có đủ căn cứ để kết luận:

Khong 10 giờ ngày 06-6-2019, tại khu vực xóm 3, xã K, huyện V; Trịnh Quốc Đ đang có hành vi cất giấu trái phép 01 gói ma túy loại Methamphetaminne với khối lượng 0,224 gam trong người nhằm mục đích sử dụng thì bị Công an huyện V phát hiện bắt quả tang.

Với hành vi nêu trên của bị cáo Trịnh Quốc Đ đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo Trịnh Quốc Đ là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm tới trật tự quản lý kinh tế trong việc sản xuất, quản lý hàng cấm, tới chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy và còn gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện.

[4] Về nhân thân: Ngày 01-02-2013 bị Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Nam Định xử phạt 24 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, ngày 01-8-2014 Đ chấp hành xong án phạt tù; Ngày 13-10-2015 bị Công an phường Văn Miếu, thành phố Nam Định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức cảnh cáo về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Trịnh Quốc Đ không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra Trịnh Quốc Đ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[7] Về đường lối xử lý hành vi phạm tội của bị cáo: Căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội cũng như nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo; Hội đồng xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ điều kiện để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[8] Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo vì mục đích tàng trữ ma túy của bị cáo là để sử dụng.

[9] Về xử lý vật chứng: Toàn bộ số ma túy đã thu giữ của bị cáo đều là hàng cấm do đó căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ luật Hình sự tịch thu cho tiêu hủy.

[10] Đối với người đàn ông khoảng 45 tuổi đã bán ma túy cho Đ tại khu vực xóm 3, xã K, huyện V; Cơ quan điều tra đã xác minh nhưng chưa rõ lai lịch, địa chỉ do đó Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện V tách ra tiếp tục xác minh, xử lý sau là phù hợp với quy định của pháp luật.

[11] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c, khoản 1, Điều 249; điểm s, khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

- Tuyên bố bị cáo Trịnh Quốc Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt bị cáo Trịnh Quốc Đ 24 (hai bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 06-6-2019.

2. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo Trịnh Quốc Đ.

3. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 47 của Bộ luật Hình sự:

Tch thu cho tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong số 562/GĐKTHS của Công an tỉnh Nam Định.

(Như biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 06-8-2019 giữa Công an huyện V với Chi cục thi hành án dân sự huyện V).

4. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Trịnh Quốc Đ phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2019/HS-ST ngày 28/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:33/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vụ Bản - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về