Bản án 29/2019/HS-ST ngày 23/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 6, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 29/2019/HS-ST NGÀY 23/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 35/2019/TLST-HS ngày 27 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 41/2019/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Chung Thanh T; Sinh ngày: 02/5/1990; Tại: Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: 231/89/17 đường BT, Phường H, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Phụ buôn bán; Trình độ văn hóa: Không biết chữ; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Không rõ và bà: Nguyễn Chung Thị Xuân H; Có vợ: Không và con: Không; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 23/3/2017, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân Phường 8, Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh quyết định áp dụng biện pháp cai nghiện ma túy bắt buộc tại cộng đồng 06 tháng (Quyết định số: 18/QĐ-UBND); Bị bắt, tạm giam ngày 26/12/2018.

Nhân thân: Ngày 18/12/2013, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh quyết định áp dụng biện pháp đưa vào Cơ sở chữa bệnh 24 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (Quyết định số: 3792/QĐ-UBND-LĐTBXH). Chấp hành xong ngày 11/02/2016 (Giấy chứng nhận chấp hành xong Quyết định đưa vào Cơ sở chữa bệnh số: 989/GCN-TR3 ngày 30/12/2015 của Trường Giáo dục Đào tạo và Giải quyết việc làm Số 3). (có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Bà Liên Tố N (Qué); Sinh năm: 1989; Trú tại: 45/88/20D đường BT, Phường G, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

2. Bà Trần Cẩm L; Sinh năm: 1967; Trú tại: 45/88/20D đường BT, Phường G, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

3. Bà Đào Mỹ Tr (Nhã); Sinh năm: 1996; Trú tại: 69/7A đường VT, Phường H, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 06 giờ 05 phút ngày 26/12/2018, tại trước nhà số 231/50A đường BT, Phường H, Quận F, lực lượng trinh sát hình sự Công an Quận 6 trên đường tuần tra phát hiện Nguyễn Chung Thanh T đang điều khiển xe gắn máy biển số 59K1-957.11 chở Đào Mỹ Tr có biểu hiện nghi vấn nên kiểm tra hành chính, do T và Trang không xuất trình được giấy tờ nên cả hai được đưa về trụ sở Công an Phường 8, Quận 6 làm việc. Tại đây, qua kiểm tra đã thu giữ trong túi quần bên phải của T 01 gói nylon bên trong chứa tinh thể không màu (T khai đó là ma túy đá), nên đã giao T, Trang cùng vật chứng nêu trên cho Cơ quan điều tra Công an Quận 6 giải quyết.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Chung Thanh T khai: Tối ngày 25/12/2018, T cùng với L1, H1, T1 (không rõ lai lịch) hùn tiền đưa Long đi mua ma túy về sử dụng. Sau khi mua xong, T, L1, H1, T1 lấy ra một ít sử dụng, số còn lại T cất trong túi quần bên phải. Đến 04 giờ 30 phút ngày 26/12/2018, T điều khiển xe gắn máy biển số 59K1-957.11 về đến hẻm 69 đường Văn Thân thì gặp Đào Mỹ Tr và Tr nhờ T chở đi siêu thị, T đồng ý và chở Tr chạy đến trước nhà số 231/50A đường BT, Phường H, Quận F thì bị phát hiện bắt giữ như nêu trên.

Đào Mỹ Tr khai cũng tương tự và xác nhận không biết Nguyễn Chung Thanh T cất giữ ma túy trong người.

Tại Kết luận giám định số: 269/KLGĐ-H ngày 02 tháng 01 năm 2019, Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã kết luận: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có dấu vân tay ghi tên Nguyễn Chung Thanh T và các chữ ký ghi tên Nguyễn Tấn Phương (Điều tra viên), Đặng Văn B (người chứng kiến) và hình dấu Công an Phường H, Quận F gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,4170g (không phẩy bốn một bảy không gam), loại Methamphetamine.

Đối với Đào Mỹ Tr, do không liên quan đến hành vi phạm tội của Nguyễn Chung Thanh T, nên không truy cứu trách nhiệm hình sự. Còn những người tên L1, H1, T1, Cơ quan điều tra không xác định được lai lịch.

Tại Cáo trạng số: 36/CT-VKS ngày 27 tháng 3 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Chung Thanh T về tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy» theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Chung Thanh T khai nhận chính bị cáo đã thực hiện hành vi cất giữ 01 bịch ma túy (loại ma túy đá) để sử dụng và bị Công an phát hiện bắt quả tang tại hẻm 231 đường BT, Phường H, Quận F vào sáng ngày 26/12/2018 như nội dung bản cáo trạng nêu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Chung Thanh T như bản cáo trạng và sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo cùng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Phạt bị cáo Nguyễn Chung Thanh T từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm 06 tháng tù về tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy» theo điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Không phạt tiền đối với bị cáo, do bị cáo không có khả năng thi hành.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy 01 gói có chứa ma túy đã được niêm phong, bên ngoài có ghi vụ số: 269/19 Q6, có các chữ ký của Giám định viên Lê Thị Hằng, Điều tra viên Nguyễn Tấn Phương, cán bộ điều tra Võ Văn Thải, người chứng kiến Đặng Văn B, dấu lăn tay trỏ trái màu đỏ và hình dấu Công an Phường 8, Quận 6.

Trả lại bị cáo Nguyễn Chung Thanh T 01 chiếc điện thoại di động màu trắng, bên ngoài có ghi chữ Iphone (mặt sau bị bể), số Imei: 013061006189812 và 01 sim điện thoại có số thuê bao 070767428.

Còn các vật chứng khác, Cơ quan điều tra đã xử lý xong, nên không đề nghị xử lý.

Lời nói sau cùng, bị cáo Nguyễn Chung Thanh T nhận thức được hành vi của bị cáo là sai, là vi phạm pháp luật và xin Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án nhẹ nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình, có cơ hội làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 6, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối chiếu lời khai của bị cáo Nguyễn Chung Thanh T tại phiên tòa là phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản tạm giữ tang vật, Kết luận giám định, lời khai của người làm chứng tại Cơ quan điều tra cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Chung Thanh T đã cất giữ 0,4170 gam ma túy ở thể rắn (loại Methamphetamine) để sử dụng, là phạm tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy». Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, đúng như Viện kiểm sát đã truy tố.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Chung Thanh T không những đã xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về việc cất giữ chất ma túy mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an chung.

Bị cáo Nguyễn Chung Thanh T là người đã trưởng thành, hoàn toàn có đủ khả năng nhận thức được hành vi cũng như hậu quả do hành vi của bị cáo gây ra, nhưng để thỏa mãn lối sống không lành mạnh và nhất là xem thường pháp luật, nên bị cáo đã cố tình thực hiện hành vi phạm tội nêu trên, do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.

[3] Bản thân bị cáo Nguyễn Chung Thanh T ngày 23/3/2017, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân Phường 8, Quận 6 quyết định áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc tại cộng đồng 06 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Ngoài ra, bị cáo còn có nhân thân xấu, đó là ngày 18/12/2013, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận 6 quyết định áp dụng biện pháp đưa vào Cơ sở chữa bệnh 24 tháng về hành vi sử dụng chất ma túy. Lẽ ra bị cáo phải biết rèn luyện, tu dưỡng để trở thành người có ích cho gia đình và cho xã hội, nhưng ngược lại, vẫn tiếp tục sống buông thả và phạm tội.

[4] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Chung Thanh T là nghiêm trọng, bởi các chất ma túy ở thể rắn nói chung và Methamphetamine nói riêng là chất gây nghiện độc hại, việc sử dụng ma túy đã gây tác hại rất lớn và ảnh hưởng rất xấu đến sức khỏe, làm mất khả năng lao động, học tập của chính người sử dụng và đây cũng chính là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm khác, do đó Hội đồng xét xử thấy cần phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc tương xứng mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và để phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa đều có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì bị cáo Nguyễn Chung Thanh T còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo phạm tội không vụ lợi, là lao động tự do, không có thu nhập, điều kiện kinh tế còn khó khăn, vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Việc xử lý vật chứng: 01 gói có chứa ma túy đã được niêm phong, bên ngoài có ghi vụ số: 269/19 Q6, có các chữ ký của Giám định viên Lê Thị Hằng, Điều tra viên Nguyễn Tấn Phương, cán bộ điều tra Võ Văn Thải, người chứng kiến Đặng Văn B, dấu lăn tay trỏ trái màu đỏ và hình dấu Công an Phường H, Quận F, là vật cấm lưu hành, nên Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Còn chiếc điện thoại di động màu trắng, bên ngoài có ghi chữ Iphone (mặt sau bị bể), số Imei: 013061006189812 (bên trong có 01 sim điện thoại số thuê bao 070767428) thu giữ của bị cáo Nguyễn Chung Thanh T. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị trả lại cho bị cáo vì không đủ căn cứ xác định bị cáo đã hoặc sẽ dùng vào việc phạm tội. Xét đề nghị của Viện kiểm sát là có cơ sở, nên Hội đồng xét xử chấp nhận theo quy định tại khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

(theo Phiếu nhập kho vật chứng số: 04/PNK ngày 17 tháng 01 năm 2019 của Công an Quận 6 - BL39) Đối với chiếc xe gắn máy biển số 59K1-957.11 thu giữ của bị cáo Nguyễn Chung Thanh T, Cơ quan điều tra xác định là tài sản hợp pháp của bà Trần Cẩm L, nên đã xử lý trả lại bà Lan(theo Biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 01/02/2019 - BL103). Còn chiếc điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh thu giữ của bà Đào Mỹ Tr. Xét không liên quan đến vụ án, nên Cơ quan điều tra đã xử lý trả lại cho bà Tr (theo Biên bản về việc trả lại vật, tài liệu ngày 19/3/2019 - BL108), do đó Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

[7] Đối với bà Đào Mỹ Tr, Viện kiểm sát xác định không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Chung Thanh T, nên không truy cứu trách nhiệm hình sự. Còn những người tên L1, H1, T1, Cơ quan điều tra không xác định được lai lịch, do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[8] Bị cáo Nguyễn Chung Thanh T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Chung Thanh T phạm tội: «Tàng trữ trái phép chất ma túy».

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Chung Thanh T 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 26/12/2018.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) gói có chứa ma túy đã được niêm phong, bên ngoài có ghi vụ số: 269/19 Q6, có các chữ ký của Giám định viên Lê Thị Hằng, Điều tra viên Nguyễn Tấn Phương, cán bộ điều tra Võ Văn Thải, người chứng kiến Đặng Văn B, dấu lăn tay trỏ trái màu đỏ và hình dấu Công an Phường H, Quận F.

- Căn cứ khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Trả lại bị cáo Nguyễn Chung Thanh T 01 (một) chiếc điện thoại di động màu trắng, bên ngoài có ghi chữ Iphone (mặt sau bị bể), số Imei: 013061006189812 và 01 (một) sim điện thoại số thuê bao 070767428.

- Căn cứ Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo Nguyễn Chung Thanh T phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

- Bị cáo Nguyễn Chung Thanh T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được tống đạt hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 29/2019/HS-ST ngày 23/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:29/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 6 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về