Bản án 27/2021/HS-ST ngày 30/09/2021 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG PHÚ, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 27/2021/HS-ST NGÀY 30/09/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 30 tháng 9 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 22/2021/TLST-HS ngày 19 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2021/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Tống Trường L (tên gọi khác: L tép mỡ), sinh ngày 21/3/1994; nơi sinh: Tại tỉnh Sóc Trăng; nơi cư trú: Ấp T, xã P, xã H, huyện P, tỉnh Sóc Trăng; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tống Kim K, sinh năm 1970 và bà Trần Thị L, sinh năm 1971; anh em ruột có 02 người, lớn nhất là bị cáo, nhỏ nhất sinh năm 2003; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Tại bản án số 616/HSPT ngày 27/6/2012 của Tòa án nhân dân Tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, Tống Trường L phị xử phạt 06 năm tù về tội “Giết người”, đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 31/8/2015 và được xóa án tích; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 07/4/2021 đến ngày 09/4/2021 chuyển sang tạm giam cho đến nay (có mặt).

- Bị hại: Ông Hà Mẩn X, sinh năm 1979; nơi cư trú: Ấp Đ, xã H, huyện P, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Lê Thị K, sinh năm 1955; nơi cư trú: Ấp T, xã P, xã H, huyện P, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

- Người tham gia tố tụng khác (Người làm chứng):

1. Ông Trần Hữu H (tên gọi khác: Hoàng Em), sinh năm 1990; nơi cư trú:

Ấp T, xã P, xã H, huyện P, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

2. Ông Nguyễn Minh T, sinh năm 1992; nơi đăng ký thường trú: Khu vực M, phường L, quận N, thành Phố Cần Thơ; chổ ở hiện nay: Khóm x, phường x, thành phố T, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Tống Trường L và Hà Mẩn X là bạn bè quen biết và không có mâu thuẫn với nhau. Vào khoảng hơn 14 giờ ngày 24/9/2020, tại nhà của Trần Hữu H thuộc ấp T, xã P, xã H, huyện P, tỉnh Sóc Trăng tổ chức uống rượu gồm có H, Tống Trường L, Hà Mẩn X và Nguyễn Minh T. Trong lúc uống rượu thì hết thức ăn nên H đi lại khu vực bếp để làm thức ăn, lúc này L và X nói chuyện với nhau về việc L đi lấy tiền dùm cho người khác thì giữa L và X xảy ra cự cãi, X chửi L nên L lên võng nằm, X tiếp tục chửi L nên L nói lại là “anh lớn nói chuyện gì kỳ vậy” thì X cầm ly uống rượu ném vào ngực của L, lúc này L tức giận và đứng dậy, L nhìn thấy 01 (một) cây dao dài 87cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 50cm, lưỡi dao màu đen, bén một bên, cán dao bằng gỗ dài 37cm đang để trên giường, L dùng tay phải cầm lấy cây dao và chém một đường ngang chếch từ trên xuống dưới, từ phải sang trái trúng vào vùng ngực lưng bên trái của X gây thương tích, thấy vậy H và Trí lại can ngăn thì L vứt cây dao lại và bỏ trốn, còn X thì được T đưa đi Bệnh viện đa khoa tỉnh Sóc Trăng cấp cứu và điều trị thương tích.

Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 320/TgT-PY ngày 02/11/2020 của Trung tâm Pháp y tỉnh Sóc Trăng kết luận về thương tích của Hà Mẫn X như sau:

- Sẹo ngang vùng ngực – lưng trái khoảng liên sườn 7, 8, 9, 10, 11, kích thước 18cm x 01cm, tổn thương thấu ngực gây tràn khí, tràn máu màng phổi trái, gãy xương sườn 7, 8, 9, 10, 11 bên trái. Đã được phẫu thuật: lần I: thám sát thấu màng phổi thành; Lần II: phẫu thuật nội soi lồng ngực lấy máu đông. Căn cứ vào Bảng 1, Chương 8, Mục I, Phần 3; Bảng 1, Chương 3, Mục III, Phần 2; Bảng 1, Chương 3, Mục II, Phần 1 tính theo Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ y tế.

- 03 sẹo phẫu thuật nội soi, kích thước 02cm x 0,5cm; 02cm x 01cm và 02cm x 01cm. Căn cứ vào Bảng 1, Chương 8, Mục I, Phần 1 tính theo thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ y tế.

Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 32%. Tổn thương do vật sắc gây nên. Tổn thương vùng ngực – lưng là vùng nguy hiểm đến tính mạng.

Tại công văn số 149/TTPY-GĐTH ngày 17/9/2021 của Trung tâm Pháp y tỉnh Sóc Trăng xác định:

- Căn cứ vào Bảng 1, Chương 8, Mục I, Phần 3; Bảng 1, Chương 3, Mục III, Phần 2; Bảng 1, Chương 3, Mục II, Phần 1 tính theo thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ y tế thì: Sẹo ngang vùng ngực – lưng trái khoảng liên sườn 7, 8, 9, 10, 11, kích thước 18cm x 01cm, tổn thương thấu ngực gây tràn khí, tràn máu màng phổi trái, gãy xương sườn bên trái. Đã được phẫu thuật: lần I: thám sát thấu màng phổi thành; Lần II: Phẫu thuật nội soi lồng ngực lấy máu đông. Có tỷ lệ tổn thương là 30%.

- Căn cứ vào Bảng 1, Chương 8, Mục I, Phần 1 tính theo thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ y tế thì: 03 sẹo phẫu thuật nội soi, kích thước 02cm x 0,5cm; 02cm x 01cm và 02cm x 01cm. Có tỷ lệ tổn thương là 03%.

Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 32%. Không tính 03 sẹo phẫu thuật nội soi thì tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 30%. Các sẹo phẫu thuật, dẫn lưu mục đích là để điều trị thương tích. Các thương tích để lại trên cơ thể của Hà Mẩn X gây hạn chế chức năng hô hấp nên tùy thuộc vào thể trạng để phục hồi.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định nêu trên.

Bản cáo trạng số 23/CT-VKS-LP ngày 19/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng đã truy tố bị cáo Tống Trường L (tên gọi khác: L tép mở) về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) (sau đây gọi tắt là Bộ luật Hình sự).

Bị cáo Tống Trường L (tên gọi khác: L tép mở) đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện như đã nêu trên. Về trách nhiệm dân sự thống nhất bồi thường chi phí điều trị thương tích, thu nhập thực tế bị mất của bị hại trong thời gian điều trị thương tích theo yêu cầu của bị hại Hà Mẩn X là 50.070.000 đồng, đối với tiền tổn thất tin thần thống nhất bồi thường cho bị hại số tiền 6.000.000 đồng, tổng cộng là 56.070.000 đồng.

Bị hại Hà Mẩn X đề nghị Hội đồng xét xử: Về trách nhiệm hình sự đề nghị xét xử bị cáo theo quy định của pháp luật. Về trách nhiệm dân sự chỉ yêu cầu bị cáo bồi thường các khoản chi phí điều trị thương tích là 5.070.000 đồng, thu nhập thực tế bị mất của bị hại trong thời gian điều trị thương tích là 45.000.000 đồng (250.000 đồng/ngày x 180 ngày), tiền tổn thất tin thần là 53.640.000 đồng (36 tháng x 1.490.000 đồng), tổng cộng là 103.710.000 đồng.

Tại các lời khai trong quá trình điều tra và đơn đề nghị xét xử vắng mặt lập ngày 20/9/2021, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà Lê Thị K xác định cây dao dài 87cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 50cm, lưỡi dao màu đen, bén một bên, cán dao bằng gỗ dài 37cm bị cáo dùng để gây thương tích cho bị hại là tài sản của bà K nhưng bà K không yêu cầu nhận lại.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa bổ sung cáo trạng về định khung hình phạt đối với bị cáo Tống Trường L (tên gọi khác: L tép mở) từ điểm c khoản 3 Điều 134 sang điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự vì căn cứ vào công văn 149/TTPY-GĐTH ngày 17/9/2021 của Trung tâm Pháp y tỉnh Sóc Trăng xác định thương tích của bị hại Hà Mẩn X là 30% nên giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Tống Trường L (tên gọi khác: L tép mở) đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự. Bởi vì, vào khoảng hơn 14 giờ ngày 24/9/2020, tại ấp Phú Trường, xã Phú Hữu huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng, do bực tức bị hại X chửi và dùng ly thủy tinh ném vào ngực mình nên bị cáo Tống Trường L đã dùng dao bằng kim loại là hung khí nguy hiểm chém trúng vùng ngực - lưng bên trái của bị hại Hà Mẩn X gây thương tích với tổng tỉ lệ tổn thương cơ thể là 30%. Hành vi do bị cáo Tống Trường L thực hiện là hành vi nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến sức khỏe của người khác nên cần phải xử lý nghiêm. Trên cơ sở đó, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Tống Trường L (tên gọi khác: L tép mở) phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; khoản 1 Điều 38; điểm b, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Tống Trường L (tên gọi khác: L tép mở) từ 03 năm đến 04 năm tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 tịch thu, tiêu hủy vật chứng của vụ án hiện nay Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Phú đang quản lý.

Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 584, Điều 586 và Điều 590 Bộ luật Dân sự 2015 ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo Tống Trường L bồi thường cho bị hại Hà Mẩn X chi phí điều trị thương tích, thu nhập thực tế bị mất của bị hại trong thời gian điều trị thương tích với tổng số tiền là 50.070.000 đồng và buộc bị cáo bồi thường cho bị hại tổn thất tin thần là 22.350.000 đồng, tổng cộng bị cáo phải bồi thường là 72.420.000 đồng. Đề nghị tiếp tục quản lý số tiền 5.000.000 đồng bị cáo đã nộp theo biên lai thu số 002434 ngày 30/6/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Phú.

Lời nói sau cùng của bị cáo Tống Trường L (tên gọi khác: L tép mở): Bị cáo nhận thấy hành vi mà bị cáo đã thực hiện là vi phạm pháp luật, bị cáo rất hối hận và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

1 Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra huyện Long Phú, Điều tra Viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà Lê Thị K, vắng mặt người làm chứng Nguyễn Minh T; bà K có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, ông T vắng mặt không có lý do. Xét sự vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử và tại phiên tòa, Kiểm sát viên, bị cáo, bị hại, nguyên đơn dân sự không yêu cầu hoãn phiên tòa. Sau khi thảo luận tại phòng xử án, căn cứ vào Điều 292, Điều 293 và Điều 299 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử thống nhất vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[3] Tại phiên toà, bị cáo Tống Trường L (tên gọi khác: L tép mở) khai nhận: Vào khoảng hơn 14 giờ ngày 24/9/2020, tại nhà của Trần Hữu H thuộc ấp T, xã P, xã H, huyện P, tỉnh Sóc Trăng, Tống Trường L, Hà Mẩn X, Trần Hữu H và Nguyễn Minh T cùng uống rượu với nhau. Trong lúc uống rượu thì L và X nói chuyện với nhau về việc L đi lấy tiền dùm cho người khác thì giữa L và X xảy ra cự cãi, X chửi L nên L lên võng nằm, X tiếp tục chửi L nên L nói lại là “anh lớn nói chuyện gì kỳ vậy” thì X cầm ly uống rượu ném vào ngực của L, lúc này L tức giận và đứng dậy, L nhìn thấy 01 (một) cây dao dài 87cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 50cm, lưỡi dao màu đen, bén một bên, cán dao bằng gỗ dài 37cm đang để trên giường, L dùng tay phải cầm lấy cây dao và chém một đường ngang chếch từ trên xuống dưới, từ phải sang trái trúng vào vùng ngực lưng bên trái của X, sau khi gây thương tích cho bị hại X thì bị cáo bỏ trốn và bị truy nã đến ngày 07/4/2021 ra đầu thú. Theo kết luận giám định, bị hại Hà Mẩn X bị tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 30%. Lời thừa nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai trước đây của bị cáo tại Cơ quan điều tra và hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ như biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường, kết luận giám định, các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án mà Cơ quan điều tra đã thu thập được lưu giữ trong hồ sơ vụ án.

[4 Nhận định về hành vi phạm tội và tội danh của bị cáo:

Hành vi cố ý dùng thấy 01 (một) cây dao dài 87cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 50cm, lưỡi dao màu đen, bén một bên, cán dao bằng gỗ dài 37cm chém trúng vào vùng ngực lưng bên trái của bị hại Hà Mẩn X gây thương tích là 30% mà bị cáo Tống Trường L (tên gọi khác: L tép mở) thực hiện đã phạm vào tội “Cố ý gây thương tích”. Mặt khác, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thể hiện là người bình thường có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự nên hành vi của bị cáo đã thực hiện cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, cáo trạng số: 13/CT-VKS-LP ngày 13/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú và việc Đại diện Viện kiểm sát bổ sung cáo trạng tại phiên tòa truy tố bị cáo Tống Trường L (tên gọi khác: L tép mở) về tội danh và khung hình phạt nêu trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan cho bị cáo nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến sức khỏe của công dân mà còn gây mất trật tự trị an xã hội, gây hoang mang cho quần chúng nhân dân. Với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo cần xử lý nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có đủ điều kiện và thời gian cải tạo, răn đe và giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, đảm bảo công tác phòng chống tội phạm trong tình hình mới tại địa phương và có tác dụng phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Tống Trường L (tên gọi khác: L tép mở) nhận thấy:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng xét thấy bị cáo có nhân thân xấu, tại bản án số 616/HSPT ngày 27/6/2012 của Tòa án nhân dân Tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, Tống Trường L phị xử phạt 06 năm tù về tội “Giết người”, đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 31/8/2015 và được xóa án tích nhưng bị cáo lại tiếp tục phạm tội. Trong quá trình điều tra bị cáo đã tự nguyện nộp số tiền 5.000.000 đồng để bồi thường một phần thiệt hại cho bị hại Hà Mẩn X; bị cáo đã thành khẩn khai báo; sau khi phạm tội bị cáo đã bỏ trốn và bị truy nã nhưng sau đó đã đến Công an huyện Long Phú để đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, gia đình bị cáo có công với cách mạng (ông chú của bị cáo là Liệt sĩ Tống Kim P) nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm b, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo. Ngoài ra không còn tình tiết nào để xem xét giảm nhẹ thêm cho bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/7/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Long Phú và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Phú: 01 (một) cây dao dài 87cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 50cm, lưỡi dao màu đen, bén một bên, cán dao bằng gỗ dài 37cm. Xét thấy, vật chứng trên là công cụ phạm tội, là tài sản của bà Lê Thị K và bà K không yêu cầu được nhận lại nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu, tiêu hủy.

[7] Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại Hà Mẩn X chỉ yêu cầu bị cáo bồi thường các khoản chi phí điều trị thương tích là 5.070.000 đồng, thu nhập thực tế bị mất của bị hại trong thời gian điều trị thương tích là 45.000.000 đồng (250.000 đồng/ngày x 180 ngày), tiền tổn thất tinh thần là 53.640.000 đồng (36 tháng x 1.490.000 đồng), tổng cộng là 103.710.000 đồng. Bị cáo Tống Trường L thống nhất bồi thường chi phí điều trị thương tích và thu nhập thực tế bị mất của bị hại trong thời gian điều trị thương tích theo yêu cầu của bị hại Hà Mẩn X là 50.070.000 đồng, đối với tiền tổn thất tinh thần đề nghị xem xét theo quy định của pháp luật.

Qua xem xét các tài liệu, hoá đơn, chứng từ mà bị hại Hà Mẩn X đã cung cấp và sự tự nguyện thỏa thuận của bị cáo và bị hại tại phiên tòa, đối chiếu với quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm quy định tại tại Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 584, Điều 586 và Điều 590 Bộ luật Dân sự: Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo Tống Trường L bồi thường cho bị hại Hà Mẩn X các khoản chi phí điều trị thương tích là 5.070.000 đồng, thu nhập thực tế bị mất của bị hại trong thời gian điều trị thương tích là 45.000.000 đồng (250.000 đồng/ngày x 180 ngày). Đối với tiền tổn thất tinh thần buộc bị cáo bồi thường cho bị hại số tiền là 22.350.000 đồng (15 tháng x 1.490.000 đồng/tháng). Tổng cộng bị cáo Tống Trường L có nghĩa vụ bồi thường cho bị hại Hà Mẩn X số tiền là 72.420.000 đồng.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà Lê Thị K không yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[8] Giao Chi cục thi hành án dân sự huyện Long Phú tiếp tục quản lý số tiền 5.000.000 đồng mà bị cáo Tống Trường L (tên gọi khác: L tép mở) đã nộp theo biên lai thu tiền số 002434 ngày 30/6/2021 để đảm bảo thi hành án cho bị hại Hà Mẩn X.

9 Từ những phân tích nêu trên, xét việc bổ sung cáo trạng của Đại diện Viện kiểm sát về khung hình phạt đối với bị cáo Tống Trường L (tên gọi khác: L tép mở) theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, không làm xấu đi tình trạng của bị cáo phù hợp theo quy định tại Điều 306 Bộ luật Tố tụng hình sự nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Đối với đề nghị về xử lý vật chứng, trách nhiệm dân sự là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; khoản 1 Điều 38; điểm b, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Tống Trường L (tên gọi khác: L tép mở).

2. Tuyên bố: Bị cáo Tống Trường L (tên gọi khác: L tép mở) phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

3. Phạt bị cáo Tống Trường L (tên gọi khác: L tép mở) 03 (ba) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07 tháng 4 năm 2021.

4. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu, tiêu hủy vật chứng của vụ án là 01 (một) cây dao dài 87cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 50cm, lưỡi dao màu đen, bén một bên, cán dao bằng gỗ dài 37cm (theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/7/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Long Phú và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Phú).

5. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 584, Điều 586 và Điều 590 Bộ luật Dân sự buộc bị cáo Tống Trường L (tên gọi khác: L tép mở) bồi thường cho bị hại Hà Mẩn X các khoản chi phí điều trị thương tích, thu nhập thực tế bị mất của người bị hại trong thời gian điều trị thương tích, tiền tổn thất tin thần với tổng số tiền là 72.420.000 đồng (bảy mươi hai triệu, bốn trăm hai mươi nghìn đồng).

6. Giao Chi cục thi hành án dân sự huyện Long Phú tiếp tục quản lý số tiền 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) mà bị cáo Tống Trường L (tên gọi khác: L tép mở) đã nộp theo biên lai thu tiền số 002434 ngày 30/6/2021 để đảm bảo thi hành án cho bị hại Hà Mẩn X.

7. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a và điểm c khoản 1 Điều 23, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của y ban thường vụ Quốc hội, xử buộc bị cáo Tống Trường L (tên gọi khác: L tép mở) phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 3.371.000 đồng (ba triệu, ba trăm bảy mươi mốt nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

8. Về quyền kháng cáo bản án: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị K vắng mặt tại phiên tòa thì thì thời hạn kháng cáo được tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày tống đạt hợp lệ bản án theo quy định của pháp luật.

9. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 27/2021/HS-ST ngày 30/09/2021 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:27/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Phú - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về