Bản án 09/2020/HSST ngày 22/04/2020 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC L, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 09/2020/HSST NGÀY 22/04/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 22 tháng 4 năm 2020, tại hội trường Tòa án nhân dân huyện Đ, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 13/2020/HSST, ngày 26/3/2020, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Vĩnh F, giới tính: Nam. Sinh ngày 20 tháng 10 năm 1971. Nơi sinh: tỉnh B. Nơi cư trú: tổ 1, khu phố 4, thị trấn Đức Tài, huyện Đ, tỉnh B. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Nông. Trình độ học vấn: 6/12. Cha: Nguyễn Xuân Bảo, sinh năm 1947; Mẹ: Lê Thị Ngọc Dung, sinh năm 1951, cùng trú tại thôn 3, xã Đức Hạnh, huyện Đ, tỉnh B. Vợ: Đỗ Thị Bích Liễu, sinh năm 1971, trú tại khu phố 4, thị trấn Đức Tài, huyện Đ, tỉnh B. Có 03 người con lớn nhất sinh năm 1997, nhỏ nhất sinh năm 2001. Gia đình có 11 anh em, Nguyễn Vĩnh F là con lớn trong gia đình. Tiền sự, tiền án: Không. Bị cáo Nguyễn Vĩnh F đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 08/02/2020 đến ngày 08/5/2020 tại thị trấn Đức Tài, huyện Đ, tỉnh B theo Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 11 ngày 07/02/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ – Có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại: Bà Nguyễn Trần Thụy L, sinh năm 1971 Trú tại: Khu phố 4, thị trấn Đức Tài, huyện Đ, tỉnh B – Có mặt

* Người làm chứng:

1. Ông Võ Anh H, sinh năm 1964. Nơi cư trú: Khu phố 4, thị trấn Đức Tài, huyện Đ, tỉnh B – Có mặt

2. Ông Lê Qu, sinh năm 1964. Nơi cư trú: Khu phố 4, thị trấn Đức Tài, huyện Đ, tỉnh B – vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Tháng 3/2019, Nguyễn Vĩnh F, sinh năm 1971, trú tại Khu phố 4, thị trấn Đức Tài, huyện Đ có mâu thuẫn với Nguyễn Trần Thụy L, sinh năm 1971 là hàng xóm cùng khu phố. Nguyên nhân mâu thuẫn xuất phát từ việc Nguyễn Vĩnh F nghi ngờ vợ mình là Đỗ Thị Bích Liễu có quan hệ nam nữ bất chính với Phạm Đình Lộc là chồng của L. Trong quá trình sinh sống, Nguyễn Vĩnh F cho rằng Nguyễn Trần Thụy L có lời nói xúc phạm Toàn.

Khong 16 giờ 30 phút ngày 23/9/2019, sau khi đã uống rượu, Nguyễn Vĩnh F thấy Nguyễn Trần Thụy L điều khiển xe máy về nhà. Nguyễn Vĩnh F cầm một cây rựa dài 91,5cm chạy ra đường chặn Nguyễn Trần Thụy L hỏi “sao mày nói tao sống với con đĩ”. Nguyễn Trần Thụy L im lặng không nói gì. Nguyễn Vĩnh F dùng tay tát vào mặt L một cái. Lúc này, Võ Anh H là hàng xóm chạy đến can ngăn lấy cây rựa trên tay Toàn ném vào trong sân. Nguyễn Vĩnh F đi vào nhà, Nguyễn Trần Thụy L dắt xe đi về nhà của mình. Khi đi đến trước cổng nhà, Nguyễn Trần Thụy L ngồi trên xe máy nghe điện thoại. Nguyễn Vĩnh F thấy vậy cầm cây rựa chạy đến chém vào người của L. Nguyễn Trần Thụy L đưa tay lên đỡ thì cây rựa trúng vào cẳng tay trái. Sau khi bị chém, Nguyễn Trần Thụy L chạy xe máy đến Công an thị trấn Đức Tài trình báo sự việc và được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa khu vực NamB, sau đó chuyển điều trị tại Bệnh viện chấn thương chỉnh hình Thành phố Hồ Chí Minh đến ngày 25/9/2019 thì xuất viện.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 407/2019/TgT ngày 22/10/2019 của Trung tâm Pháp y tỉnh B kết luận thương tích của Nguyễn Trần Thụy L như sau:

- Vết thương, chấn thương 1/3 trên mặt sau trong cẳng tay trái, gãy kín 1/3 trên xương trụ trái, đã được phẫu thuật điều trị hiện cal xương chưa ổn định, tỷ lệ tổn thương cơ thể là 10%; sẹo vết thương mờ không liên tục, kích thước 7,5 x 0,1 cm, tỷ lệ tổn thương cơ thể là 2%; sẹo vết mổ kích thước 8 x 0,1 cm.

- Sưng bầm 1/3 trên cẳng tay trái hiện không còn dấu vết. Không đủ cơ sở xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể.

- Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 12%.

- Các tổn thương trên là của một vết thương - Vết thương cẳng tay trái do vật tày có cạnh gây ra Tại Công văn số 55/CV-PY ngày 24/02/2020, Trung tâm Pháp y tỉnh B trả lời: Vết sướt da nông dài 7cm theo mô tả trong giấy chứng nhận thương tích số 62/2019 ngày 15/10/2019 của Bệnh viện đa khoa khu vực NamB chính là sẹo vết thương mờ không liên tục, kích thước 7,5 x 0,1 cm, đã tính tỷ lệ 2%.

Tình tiết giảm nhẹ: Nguyễn Vĩnh F đã bồi thường thiệt hại; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu.

Vật chứng thu giữ: 01 cây rựa có cán bằng gỗ dài 62 cm, đường kính 03 cm, lưỡi bằng kim loại, mũi nhọn dài 29,5 cm, bề rộng 4,5 cm là công cụ thực hiện hành vi phạm tội hiện không còn giá trị sử dụng.

Về dân sự: Nguyễn Trần Thụy L yêu cầu bồi thường 35.422.136 đồng gồm: tiền xe cấp cứu khám và điều trị: 3.000.000 đồng, tiền điều trị: 27.422.136 đồng, tiền công lao động 20 ngày: 5.000.000 đồng. Tuy nhiên chi phí điều trị của Nguyễn Trần Thụy L có chứng từ hợp pháp là: 22.644.040 đồng gồm: tiền xe cấp cứu khám và điều trị: 3.000.000 đồng, tiền điều trị: 14.644.040 đồng, tiền công lao động 20 ngày: 5.000.000 đồng. Nguyễn Vĩnh F đã tự nguyện bồi thường cho Nguyễn Trần Thụy L 30.000.000 đồng.

Cáo trạng số 12/QĐ/KSĐT/VKS-HS ngày 23/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ truy tố Nguyễn Vĩnh F ra trước Tòa án nhân dân huyện Đ để xét xử về tội: Cố ý gây thương tích, theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ vẫn giữ nguyên nội dung truy tố của cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1 Điều 51, 54, 65 của Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Vĩnh F từ 15 đến 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 30 đến 36 tháng.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Vĩnh F xin lỗi người bị hại và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, để có cơ hội sửa chữa làm người công dân lương thiện.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo, người bị hại và người tham gia tố tụng khác;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Vĩnh F đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, cụ thể như sau:

Bị cáo Nguyễn Vĩnh F và người bị hại Nguyễn Trần Thụy L là hàng xóm của nhau, do có mâu thuẩn với nhau trong cuộc sống nên vào khoảng 16 giờ 30 phút ngày 23/9/2019, sau khi đã uống rượu, Nguyễn Vĩnh F thấy Nguyễn Trần Thụy L điều khiển xe máy về nhà ngang qua nhà mình. Toàn cầm một cây rựa dài 91,5cm chạy ra đường chặn Nguyễn Trần Thụy L để hỏi chuyện mâu thuẩn trước đây rồi dùng tay tát vào mặt L một cái. Lúc này, Võ Anh H là hàng xóm chạy đến can ngăn lấy cây rựa ném vào trong sân nhà của Toàn. L dắt xe đi về nhà của mình và ngồi trên xe máy nghe điện thoại trước cổng. Nguyễn Vĩnh F thấy vậy cầm cây rựa chạy đến chém thì L đưa tay lên đỡ nên cây rựa trúng vào cẳng tay trái. Sau khi bị chém, Nguyễn Trần Thụy L chạy xe máy đến Công an thị trấn Đức Tài trình báo sự việc và được đưa đến Bệnh viện đa khoa khu vực NamB điều trị, sau đó chuyển đến Bệnh viện chấn thương chỉnh hình thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục điều trị đến ngày 25/9/2019 thì xuất viện.

Hành vi của Nguyễn Vĩnh F đã gây thương tích cho Nguyễn Trần Thùy L với tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể là 12% theo như kết luận giám định số 407/2019/TgT ngày 22/10/2019 và Công văn số 55/CV-PY ngày 24/02/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh B.

Lời khai của bị cáo, người bị hại và người làm chứng tại phiên tòa phù hợp với các lời khai tại cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Căn cứ vào kết quả xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, đối chiếu với các quy định của Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử nhận thấy Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đã truy tố bị cáo Nguyễn Vĩnh F, phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ và đúng pháp luật; bỡi lẽ khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã sử dụng rựa, đây là hung khí nguy hiểm và bị cáo đã gây tổn thương cơ thể cho người bị hại là 12% tạm thời.

[2] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội; đã xâm hại đến sức khỏe của người khác, là khách thể được luật hình sự bảo vệ. Vì những mâu thuẩn trong cuộc sống giữa bị cáo với người bị hại, trong lúc không kiềm chế được bản thân bị cáo đã sử dụng hung khí nguy hiểm xâm phạm đến sức khoẻ của người bị hại. Bị cáo là người tuổi cũng đã lớn, trong cuộc sống có những mâu thuẩn với hàng xóm nhưng không giải quyết được theo hướng hòa giải hoặc theo pháp luật mà giải quyết bằng vũ lực, gây tổn thương đến sức khỏe của người khác, đồng thời gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự và an toàn xã hội tại địa phương. Nghĩ cần xử phạt với mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra nhằm răn đe, giáo dục bị cáo biết tôn trọng pháp luật, tôn trọng sức khỏe của người khác; đồng thời đấu tranh phòng ngừa tội phạm trong xã hội.

nh tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa Nguyễn Vĩnh F khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải; đã tự nguyện bồi thường thiệt hại; phạm tội lần đầu, quy định tại điểm b, s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Bị cáo Toàn có hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 điều 51 BLHS nên cần áp dụng điều 54 của Bộ luật hình sự để quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt đối với bị cáo là phù hợp.

Xét thấy bị cáo Nguyễn Vĩnh F có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt và có nơi cư trú rõ ràng nên nghĩ không cần cách ly ra khỏi xã hội mà chỉ cần giao bị cáo về cho chính quyền địa phương phối hợp cùng gia đình giáo dục là được.

[3] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ, tỉnh B; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh B; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[4] Về xử lý vật chứng: 01 cây rựa có cán bằng gỗ dài 62 cm, đường kính 03 cm, lưỡi bằng kim loại, mũi nhọn dài 29,5 cm, bề rộng 4,5 cm là công cụ Toàn dùng thực hiện hành vi phạm tội, hiện không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra và tại Tòa ánĐ, Trương Vĩnh F đã nộp 35.000.000 đồng để bồi thường theo yêu cầu bà Nguyễn Trần Thụy L, bà L đã nhận số tiền này và không yêu cầu gì thêm trong vụ án này, nếu sau này bà L phát sinh chi phí điều trị thì sẽ yêu cầu trong một vụ án dân sự khác, đây là sự tự nguyện giữa các bên nên cần chấp nhận.

[6] Về trách nhiệm về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Vĩnh F, phạm tội: Cố ý gây thương tích Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1Điều 51, 54, 65 của Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; xử phạt bị cáo Nguyễn Vĩnh F 01 năm 08 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 03 năm 04 tháng kể từ ngày tuyên án 22/4/2020.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ hai lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Giao bị cáo Nguyễn Vĩnh F cho UBND thị trấn Đức Tài, huyện Đ, tỉnh B để quản lý, giáo dục. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của Luật thi hành án hình sự 2019.

2. Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 tịch thu tiêu hủy: 01 cây rựa có cán bằng gỗ dài 62 cm, đường kính 03 cm, lưỡi bằng kim loại, mũi nhọn dài 29,5 cm, bề rộng 4,5 cm.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Điều 23, 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, xử buộc Nguyễn Vĩnh F phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; báo cho bị cáo, người bị hại biết có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án (22/4/2020), để Toà án cấp trên xét xử theo trình tự phúc thẩm.

(đã giải thích chế định án treo cho bị cáo ngay tại phiên tòa).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

459
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2020/HSST ngày 22/04/2020 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:09/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Linh - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về