Bản 09/2021/HSST ngày 04/02/2021 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ MỸ THO, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN 09/2021/HSST NGÀY 04/02/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 04 tháng 02 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 01/2021/TLST-HS ngày 04 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2021/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo:

1/Bị cáo:

- Trương Minh H, sinh ngày 15 tháng 12 năm 1989; Giới tính: Nam.

- Tại tỉnh Tiền Giang.

- Nơi cư trú: 4N3, đường H, khu phố b, phường b, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.

- Nghề nghiệp: Không.

- Trình độ học vấn: 06/12 - Cha: Trương Văn H1 sinh năm: 1954; Mẹ: Trần Thị Đ sinh năm: 1963.

- Anh chị ruột có 01 người, bị cáo là con nhỏ nhất trong gia đình.

- Bị cáo sống như vợ chồng với Nguyễn Thị Hoàng N sinh năm 1991 (không đăng ký kết hôn).

- Bị cáo có 01 người sinh năm 2013. Nhân thân:

- Ngày 20-11-2007 H bị Ủy ban nhân dân thành phố M, áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, thời hạn 12 tháng về hành vi gây rối trật tự công cộng,H chấp hành xong ngày 02-9-2008.

- Ngày 24-11-2020 H bị Công an phường T, thành phố M ra quyết định xử phạt hành chính phạt tiền 750.000 đồng về hành vi đánh Nguyễn Thị Hoàng N xảy ra ngày 22-11-2020 chưa chấp hành.

- Ngày 27-11-2020 H bị Công an phường B, thành phố M ra quyết định xử phạt hành chính phạt tiền 750.000 đồng về hành vi đánh Nguyễn Thị Hoàng N xảy ra ngày 27-11-2020 chưa chấp hành.

-Tiền sự, tiền án: Không.

Bị cáo đang bị tạm giam trong vụ án khác, hiện nay bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố M, tỉnh Tiền Giang.

Bị cáo có mặt tại phiện tòa.

2/ Người bị hại:

Nguyễn Thị Hoàng N, sinh năm: 1991(có mặt).

Địa chỉ: 18/5, đường H, phường T, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.

3/ Người làm chứng:

Trần Thị T, sinh năm: 1950 (có mặt).

Địa chỉ: 18/5, đường H, phường B, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.

- Trương Văn H2, sinh năm: 1954 (có mặt).

Địa chỉ: 4N3, khu phố b, đường H, phường B, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.

- Nguyễn Văn M, sinh năm: 1975 (vắng mặt).

Địa chỉ: 6N4A, khu phố b, đường H, phường B, thành phố M, tỉnh Tiền Giang

NỘI DUNG VỤ ÁN

Khoảng 13 giờ ngày 02-8-2020, Trương Minh H đến nhà Nguyễn Thị Hoàng N sinh năm:1991 ngụ 18/5 đường H, phường T, TP M-Tiền Giang (H và N sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn) để chở N về nhà H. Đến khoảng 19 giờ 15 phút, cùng ngày N lấy xe đạp của H đi về nhà. Khi N dẫn xe ra ngoài đường hẻm, N nói về không quay lại và kêu H đi bộ xuống lấy xe về. H tức giận việc N nói đi về không quay lại nên kêu N đi trở vào nhà của bị cáo, nhưng N vẫn bỏ đi nên H chạy theo và lấy một khúc gỗ, loại tròn dài khoảng 1,7m trước nhà bà Lê Thị Thu T sinh năm 1969 ngụ 4N5, đường H, khu phố b, phường B, thành phố M-Tiền Giang để đánh N nên N đưa tay lên đỡ trúng vào tay phải làm gãy xương cẳng tay. Sau đó N xuống xe dựa vào vách trường, H tiếp tục dùng tay, chân đánh vào người và nắm áo lôi N vào nhà. Lúc này N nói cho H biết tay phải đau bị gãy, kêu H chở đi khám H nhìn thấy tay phải của N bị sưng phù, nhưng do không có tiền nên không chở N đi khám. Đến ngày 03-8-2020, đợt H đi làm, N đi về nhà nói cho bà ngoại của N là bà Trần Thị T sinh năm 1950 ngụ số 18/5, đường H, phường 8T, TP M-Tiền Giang biết việc bị H dùng cây đánh gãy tay phải và đi đến Bệnh viện Đa khoa Tiền Giang khám, được chỉ định bó bột tay phải. Điều trị tại Bệnh viện Đa khoa Trung tâm tỉnh Tiền Giang từ ngày 19- 8-2020 đến ngày 27-8-2020. Ngày 04-8-2020, N đến Công an phường B, TP M trình báo vụ việc và có đơn yêu cầu xử lý hình sự đối với H. Đồng thời Công an phường B tiến hành thu giữ khúc gỗ tròn có chu vi 13cm, dài 80cm, bên ngoài có đóng khối bếp là tang vật H khẳng định đã dùng gây thương tích cho N. Riêng N xác định H dùng khúc gỗ vuông, dài khoảng 1,5m đánh N gây thương tích.

Vật chứng thu giữ trong vụ án:

- 01 khúc gỗ tròn, có chu vi 13cm, dài 80cm được niêm phong có dấu mộc tròn đỏ của Công an phường b, thành phố M và chữ ký của Trương Minh H và Nguyễn Văn M, H xác định đã sử dụng gây thương tích ở tay phải của N (Cơ quan điều tra đã chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự thành phố Mỹ Tho chờ xử lý).

Căn cứ giấy chứng nhận thương tích số 246/BV-GCN ngày 31-8-2020 của Bệnh viện Đa khoa Trung tâm tỉnh Tiền Giang xác định tình trạng thương tích của Nguyễn Thị Hoàng N: Gãy 1/3 dưới xương trụ phải.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 357/2020/TgT ngày 15-9- 2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Tiền Giang kết luận: 1.Dấu hiệu chính qua giám định: Gãy 1/3 dưới xương trụ phải; Sẹo mổ 1/3 dưới trong cẳng tay phải và sẹo mổ sau khủy phải; 2.Kết luận: Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định của nạn nhân Nguyễn Thị Hoàng N là 11%. Thương tích do vật tầy gây nên.

Tại bản kết luận giám định số 4979/C09B ngày 30-9-2020 của phân viện Khao học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: 01 khúc gỗ tròn, có chu vi 13cm, dài 80cm gửi giám định là hung khí nguy hiểm.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại Nguyễn Thị Hoàng N không yêu cầu bị cáo bồi thường chi phí điều trị.

Trong quá trình điều tra, truy tố: Bị cáo Trương Minh H thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội phù hợp lời khai người bị hại, người làm chứng và các chứng cứ khác thu thập có trong hồ sơ vụ án, Người bị hại có đơn rút đơn yêu cầu xử lý hình sự nên được xem là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Tại bản cáo trạng số 11/CT-VKSMT ngày 31-12-2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Mỹ Tho đã truy tố Trương MinhH về tội “Cố ý gây thương tích”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm đ Khoản 2 Điều 134 Bộ Luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố M: Tóm tắt và nhận định nội dung vụ án và đưa ra các căn cứ buộc tội và tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm đ Khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự và Điểm s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Trương Minh H từ 24-30 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự .

Tịch thu tiêu hủy: 01 khúc gỗ tròn, có chu vi 13cm, dài 80cm không còn giá trị. Trách nhiệm dân sự: Người bị hại Nguyễn Thị Hoàng N không yêu cầu bị cáo Trương Minh H bồi thường chi phí điều trị thương tích.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra thành phố Mỹ Tho, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Mỹ Tho, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có khiếu nại hay có ý kiến gì về hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đều đã thực hiện đúng quy định pháp luật.

[2] Tại phiên tòa bị cáo khai nhận: Khoảng 13 giờ ngày 02-8-2020, bị cáo đến nhà Nguyễn Thị Hoàng N (H và N sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn) để chở Ngọc về nhà H chơi. Đến khoảng 19 giờ 15 phút, cùng ngày Ngọc lấy xe đạp của bị cáo đi về nói sẽ quay lại. Nhưng khi Ngọc dẫn xe ra ngoài đường hẻm, N nói về không quay lại và kêu bị cáo đi bộ xuống nhà Ngọc lấy xe về. Bị cáo tức giận việc N nói đi về không quay lại nên kêu N đi trở vào nhà nhưng N vẫn bỏ đi nên bị cáo chạy theo và lấy một khúc cây gỗ, loại tròn dài khoảng 1,7m trước nhà bà Lê Thị Thu T sinh năm 1969 ngụ 4N5, đường H, khu phố b, phường b, thành phố M-Tiền Giang để đánh N nên N đưa tay lên đỡ trúng vào tay phải làm gãy xương cẳng tay. Sau đó N xuống xe dựa vào vách trường, bị cáo tiếp tục dùng tay, chân đánh vào người và nắm áo lôi N vào nhà bị cáo. Lúc này N nói cho bị cáo biết tay phải đau bị gãy, kêu bị cáo chở đi khám bị cáo nhìn thấy tay phải của N bị sưng phù nhưng do không có tiền nên không chở N đi khám. Đến ngày 03-8-2020, N đợi bị cáo đi làm, N đi về nhà nói cho bà ngoại của N là bà Trần Thị T sinh năm 1950 ngụ số 18/5, H, phường T,TP M-Tiền Giang biết việc bị cáo dùng cây đánh gãy tay phải, thì bà T đưa N đi đến Bệnh viện Đa khoa Trung tâm tỉnh Tiền Giang khám, được bác sĩ chỉ định bó bột tay phải. Điều trị tại bệnh viện Đa khoa Trung tâm tỉnh Tiền Giang từ ngày 19-8-2020 đến ngày 27-8- 2020. Ngày 04-8-2020 N đến Công an phường B, TP M –Tiền Giang trình báo vụ việc và có đơn yêu cầu xử lý hình sự đối với bị cáo. Đồng thời Công an phường B, thành phố M-Tiền Giang tiến hành xác minh, thu giữ khúc gỗ tròn có chu vi 13cm, dài 80cm, bên ngoài có đóng khối bếp là tang vật bị cáo dùng gây thương tích cho N. Riêng N xác định bị cáo dùng khúc gỗ vuông, dài khoảng 1,5m đánh Ngọc gây thương tích.

[3] Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng cùng các tài liệu chứng cứ và đã được thẩm tra tại phiên tòa. Bị cáo sử dụng khúc gỗ tròn có chu vi 13cm, dài 80cm là hung khi nguy hiểm gây tổn thương cơ thể cho người bị hại chị Nguyễn Thị Hoàng N với tỷ lệ là 11%. Do đó, đủ cơ sở kết luận bị cáo phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại Điểm đ Khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự.

[4] Căn cứ Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 357/2020/TgT ngày 15-9-2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Tiền Giang kết luận: 1.Dấu hiệu chính qua giám định: Gãy 1/3 dưới xương trụ phải; Sẹo mổ 1/3 dưới trong cẳng tay phải và sẹo mổ sau khủy phải; 2.Kết luận: Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định của nạn nhân Nguyễn Thị Hoàng N là 11%. Thương tích do vật tầy gây nên.

[5] Căn cứ bản kết luận giám định số 4979/C09B ngày 30-9-2020 của phân viện Khao học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: 01 khúc gỗ tròn, có chu vi 13cm, dài 80cm gửi giám định là hung khí nguy hiểm.

[6] Xét tính chất mức độ hành vi và hậu quả do bị cáo gây ra. Bị cáo nhận thức được mọi hành vi xâm phạm đến sức khỏe người khác đều là hành vi vi phạm pháp luật và sẽ bị chế tài xử phạt theo pháp luật. Nhưng do bản tính hung hăng, cố ý, sau đó ngày 22-11-2020 và ngày 27-11-2020 bị cáo tiếp tục đánh bị hại bị xử phạt hành chính hơn nữa giữa bị cáo và chị Hoàng N đã sống chung với nhau như vợ chồng (không đăng ký kết hôn) không có mâu thuẫn vì chị N đang ở tại nhà bị cáo chơi, sau đó chị N lấy xe đạp của bị cáo đi về nhà, chị N nói không quay lại nhà bị cáo và chị N kêu bị cáo xuống lấy xe về, thì bị cáo tức giận dùng khúc gỗ tròn 13cm, dài 80cm đánh chị N thương tích tỷ lệ 11%. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sức khỏe của người khác, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội hội, gây tâm lý hoang mang cho nhân dân trên địa bàn dân cư. Do đó, Hội đồng xét xử cần xét xử bị cáo mức án tương ứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nhằm răn đe, cải tạo, giáo dục bị cáo trớ thành công dân tốt có ích cho xã hội sau này.

[6] Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu, người bị hại đã rút yêu cầu xử lý hình sự đối với bị cáo và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với vật chứng thu giữ, biên bản khám nghiệm hiện trường và các chứng cứ khác thu thập có trong hồ sơ vụ án nên được xem xét là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm s khoản 1 và Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ khi quyết định hình phạt cho bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự:

Ghi nhận người bị hại chị Nguyễn Thị Hoàng N không yêu cầu bị cáo bồi thường chi phí điều trị thương tích nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[7] Về xử lý vật chứng:

Trong quá trình điều tra cơ quan điều tra có thu giữ 01 khúc gỗ tròn 13cm, dài 80cm là dụng cụ bị cáo dùng gây thương thích cho chị N không còn giá trị nên Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy.

[8] Ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nên nhận định của Hội đồng xét xử. Nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTV QH khóa 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Trương MinhH phạm tội: “Cố ý gây thương tích”.

1/ Áp dụng Điểm đ Khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự; Điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự.

Xử : Phạt bị cáo Trương Minh H 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt đi chấp hành án.

2/ Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy:

- 01 khúc gỗ tròn, có chu vi 13 cm, dài 80 cm được cho vào ống nhựa bịt kín hai đầu, sau đó được dán niêm phong có hình dấu tròn màu đỏ của Phân viện khoa học hình sự tại TP Hồ Chí Minh và họ tên chữ ký của Hoàng Văn T và Trần Phúc T1.

(Theo quyết định xử lý vật chứng số 05/QĐ-VKSMT ngày 31-12-2020, Biên bản giao nhận vật chứng ngày 06-01-2021).

3/ Về trách nhiệm dân sự:

- Ghi nhận chị Nguyễn Thị Hoàng N không yêu cầu bị cáo Trương Minh H bồi thường chi phí điều trị thương tích Tất cả thực hiện khi án có hiệu lực pháp luật

4/ Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 135 Bộ luật hình sự và Điểm a,c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khoán 14 về mức thu, nộp, giảm và quản lý sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Trương Minh H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5/ Bị cáo Trương Minh H, người bị hại Nguyễn Thị Hoàng N có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Để yêu cầu xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án,tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

607
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản 09/2021/HSST ngày 04/02/2021 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:09/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Mỹ Tho - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về