Bản án 27/2020/HS-ST ngày 19/08/2020 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG NÔ. TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 27/2020/HS-ST NGÀY 19/08/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 19 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Krông Nô, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 29/2020/HSST ngày 13 tháng 7 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2020/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 8 năm 2020, đối với bị cáo:

Chìu Văn B, sinh năm 1976 tại tỉnh Quảng Ninh; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn N, xã N, huyện K, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 0/12; dân tộc: Dao; tôn giáo: không; giới tính: Nam; quốc tịch:

Việt Nam; con ông Chìu A T (đã chết) và bà Chương Thị M, sinh năm 1938; vợ là Hà Thị T, sinh năm 1978 và 06 con, con lớn nhất sinh năm 1996, con nhỏ nhất sinh năm 2007; tiền án: không; tiền sự: không. Hiện đang tại ngoại theo Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của Tòa án nhân dân huyện Krông Nô. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Ngươi bao chưa cho bị cáo Chìu Văn B: Ông Phạm Quang L (có đơn xin xét xử vắng mặt), ông Hoang Ngo c T - Trung tâm trơ giup phap ly nha nươc tinh Đăk Nông - có mặt.

- Người bị hại: Ông Chìu Văn H, sinh năm 1969 - có mặt. Địa chỉ: Thôn N, xã N, huyện K, tỉnh Đắk Nông.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Ông Chìu Văn C, sinh năm 1997 - có mặt.

Địa chỉ: Thôn N, xã N, huyện K, tỉnh Đắk Nông.

- Người làm chứng:

1) Ông Chương Văn S1, sinh năm 1964 – vắng mặt. Địa chỉ: Thôn N, xã N, huyện K, tỉnh Đắk Nông.

2) Ông Chìu Văn S2, sinh năm 1983 – vắng mặt. Địa chỉ: Thôn N, xã N, huyện K, tỉnh Đắk Nông.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 17 giờ ngày 05/02/2020, Chìu Văn B làm cơm cúng lễ đầu năm tại nhà ở thôn N, xã N, huyện K. Lúc này có Chìu Văn S, Lý Văn D, Chìu Văn C, Chìu Văn H và ông Chương Văn S (thầy cúng) cùng trú tại thôn N, xã N, huyện K đến uống rượu tại nhà Chìu Văn B. Trong lúc uống rượu, B có nghe C nói “Nể là chú ruột thôi không đánh lâu rồi”, sau đó giữa B và C xảy ra mâu thuẫn và được mọi người can ngăn, B vào phòng riêng của gia đình nằm, ông D ra về còn S2, S1, C, H đi về nhà S2 tiếp tục uống rượu. Trong lúc mọi người đang ở nhà S2 thì Chìu Văn B nghĩ đến câu nói trước đó mà anh C đã nói với mình nên bực tức, B lấy 01 cái kéo bằng kim loại, màu đen, dài khoảng 18 cm bỏ trong túi quần đến nhà ông S2. Khi B đến nhà ông S2 thì lúc này ông S1, S2 và ông H đang ngồi nói chuyện còn C đang nạp card điện thoại cho ông S1. Thấy anh C, B tiến lại gần dùng tay phải đấm 01 cái vào mặt anh C, thấy vậy ông H và ông S1 vào can ngăn thì B dùng tay phải lấy cái kéo mang theo để trong túi quần đâm vào vai trái và mông bên trái của ông H, thấy ông H bị chảy máu nên anh S2 đuổi B ra khỏi nhà, khi ra phía ngoài sân thấy xe của ông H dựng phía trước B dùng chân đạp đổ xe máy của ông H rồi đi bộ về nhà, sau đó ông H được mọi người đưa đi cấp cứu tại Trung tâm y tế huyện K.

Về vật chứng vụ án: Trong quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã thu giữ: 01 (một) cái kéo bằng kim loại, màu đen, dài 18cm, cán bọc một lớp nhựa màu đen.

Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 364/TgT-TTPY, ngày 01/4/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Đăk Lăk kết luận: Chìu Văn H bị thương tích 4%. (Dấu hiệu chính qua giám định: - Hai sẹo (cách nhau 1,1cm) nằm mặt trước vai cánh tay trái lần lượt: + Sẹo phía trên kích thước 0,5cm x 0,2cm; + Sẹo phía dưới vào trong kích thước 0,3cm x 0,2cm; - Hai sẹo (cách nhau 1,5cm) nằm dọc bờ ngoài mông trái lần lượt: + Sẹo phía trên kích thước 0,5cm x 0,2cm; + Sẹo phía dưới kích thước 0,5cm x 0,3cm; Vật tác động: Vật có hai đầu sắc nhọn; Cơ chế hình thành vết thương: Hai sẹo nằm mặt trước vai cánh tay trái là do tác động trực tiếp của vật có hai đầu sắc nhọn hướng từ trước ra sau, từ trái qua phải; Hai sẹo nằm dọc bờ ngoài mông trái là do tác động trực tiếp của vật có hai đầu sắc nhọn hướng từ sau ra trước, từ trái qua phải).

Người bị hại ông Chìu Văn H yêu cầu bồi thường thiệt hại sức khỏe là 10.000.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số 32/CT-VKS, ngày 13/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Nô đã truy tố bị cáo Chìu Văn B về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a khoản 1 Điều 134 của Bộ luật hình sự.

Kết quả xét hỏi tại phiên tòa bị cáo Chìu Văn B đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và thừa nhận Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Nô truy tố bị cáo là đúng, không oan.

Kết quả tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Nô giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố hành vi của bị cáo Chìu Văn B như bản cáo trạng số 32/CT-VKS, ngày 13/7/2020. Sau khi phân tích các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử :

-Tuyên bố bị cáo Chìu Văn B phạm tội "Cố ý gây thương tích".

-Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Chìu Văn B từ 06 (sáu) tháng đến 09 (chín) tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) cái kéo bằng kim loại, màu đen, dài 18cm, cán bọc một lớp nhựa màu đen.

Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo và người bị hại, bị cáo Chìu Văn B thanh toán cho ông Chìu Văn H số tiền bồi thường là 10.000.000 đồng.

Tại phiên tòa bị cáo Chìu Văn B đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và không bào chữa gì về hành vi phạm tội của mình mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa người bào chữa cho bị cáo Chìu Văn B trình bày: Đồng ý với bản cáo trạng của VKSND huyện Krông Nô truy tố bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích”. Quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình, do bực tức cá nhân nên không kiềm chế, kiểm sóat được hành vi của mình nên dẫn tới hành vi phạm tội, mặt khác bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, nhân thân tốt và lần đầu phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo là người dân tộc thiểu số, hiểu biết pháp luật thấp đồng thời tại phiên tòa bi cáo tự nguyện bồi thường cho bị hại số tiền 10.000.000 đồng. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 65 của Bộ luật hình sự cho bị cáo được hưởng án treo để bị cáo có cơ hội sửa sai, thành công dân có ích cho xã hội.

Căn cứ vào các chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ.

Sau khi nghe ý kiến của Kiểm sát viên; bị cáo; bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; người bào chữa cho bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện Krông Nô, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Nô, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Luật sư bào chữa cho bị cáo, bị cáo và bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Đối với hành vi phạm tội của bị cáo Hội đồng xét xử thấy rằng:

Do ý thức coi thường pháp luật, coi thường sức khỏe của người khác nên vào khoảng 17 giờ ngày 05/02/2020 tại thôn N, xã N, huyện K, Chìu Văn B đã dùng cái kéo là hung khí nguy hiểm đâm vào mặt trước vai cánh tay trái và bờ ngoài mông trái của ông Chìu Văn H, gây thương tích cho ông Chìu Văn H 4% (Bốn phần trăm).

Bị cáo đã thực hiện hành vi và hậu quả do hành vi của bị cáo gây ra, đủ căn cứ kết luận bị cáo phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a khoản 1 Điều 134 của Bộ Luật hình sự.

Tại Điều 134 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Dùng hung khí nguy hiểm…:

………………………………….

[3]. Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục, cải tạo bị cáo và răn đe phòng ngừa chung trong xã hội.

[4]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo xuất thân từ thành phần gia đình nông dân lao động, trình độ học vấn thấp nên nhận thức pháp luật có phần hạn chế. Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[5]. Xét đề nghị của người bào chữa cho bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy, mặc dù giữa bị cáo B và ông H không có mâu thuẫn nhưng hành vi của bị cáo đã dùng kéo mang theo trong túi quần là hung khí nguy hiểm đâm trúng vào vai trái và mông trái của bị hại gây thương tích cho bị hại là vi phạm pháp luật, đồng thời sau khi gây thương tích cho bị hại, bị cáo ra phía ngoài sân đã hung hăng dùng chân đạp đổ xe máy của người bị hại. Vì vậy, không có cơ sở để cho bị cáo được hưởng án treo theo đề nghị của người bào chữa.

[6]. Đối với hành vi của bị cáo Chìu Văn B dùng tay đấm 01 cái vào mặt anh Chìu Văn C nhưng do thương tích không đáng kể nên anh C không yêu cầu giải quyết. Do đó, Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

Đối với hành vi của Chìu Văn B dùng chân đạp đổ xe máy của ông Chìu Văn H, do thiệt hại về tài sản chưa xảy ra nên ông H không yêu cầu giải quyết. Do đó, Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

[7]. Các biện pháp tư pháp:

- Về trách nhiệm dân sự: Quá trình giải quyết vụ án, người bị hại ông Chìu Văn H yêu cầu bị cáo Chìu Văn B bồi thường trách nhiệm dân sự số tiền 10.000.000 đồng. Tại phiên tòa ông H chấp nhận bị cáo B bồi thường về thiệt hại sức khỏe cho ông H 10.000.000 đồng và thời hạn thanh toán vào ngày 30/11/2020 và không yêu cầu gì thêm. Xét việc tự nguyện bồi thường thiệt hại về sức khỏe của bị cáo cho bị hại là tự nguyện và không trái pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8].Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) cái kéo bằng kim loại, màu đen, dài 18cm, cán bọc một lớp nhựa màu đen (vật chứng có đặc điểm như trong biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan Công an huyện Krông Nô và Chi cục thi hành án dân sự huyện Krông Nô).

[9]. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm và 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Chìu Văn B phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

1. Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Chìu Văn B 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt thi hành án.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) cái kéo bằng kim loại, màu đen, dài 18cm, cán bọc một lớp nhựa màu đen (Vật chứng có đặc điểm như trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/7/2020 giữa Cơ quan CSĐT Công an huyện Krông Nô và Chi cục thi THADS huyện Krông Nô)

3. Về phần bồi thường: Căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 584, Điều 590 của Bộ luật dân sự.

Công nhận sự thỏa thuận bồi thường thiệt hại về sức khỏe giữa bị cáo và bị hại. Bị cáo Chìu văn B bồi thường cho bị hại ông Chìu Văn H số tiền 10.000.000 đồng. Thời hạn thanh toán vào ngày 30/11/2020.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự.

Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Chìu Văn B phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm và 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người bào chữa cho bị cáo, người bị hại có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 27/2020/HS-ST ngày 19/08/2020 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:27/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Nô - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về