Bản án 25/2020/HS-ST ngày 11/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỤC NAM, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 25/2020/HS-ST NGÀY 11/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 11 tháng 05 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lục Nam tiến hành mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 21/2020/TLST-HS ngày 25 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30/2020/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 04 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phùng Văn M, sinh năm 1998; Tên gọi khác: Không. Nơi sinh và cư trú: thôn Q, xã Y, huyện LN, tỉnh Bắc Giang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 4/12; con ông PH Văn V sinh năm 1968 và con bà Đoàn Thị Ph sinh năm 1971; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: không;

Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ, tạm giữ từ ngày 22/10/2019 đến nay. Hiện bị can đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Giang. Có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

- Ông PH Văn V, sinh năm 1968 (có mặt) Địa chỉ: Thôn Q, xã Y, huyện LN, tỉnh Bắc Giang.

- Anh Phạm Văn H, sinh năm 1994 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn M, xã Y, huyện LN, tỉnh Bắc Giang

- Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1990 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn Đ, xã B, huyện LN, tỉnh Bắc Giang.

- Ông Hoàng Văn Th, sinh năm 1968 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn N, xã C, huyện LN, tỉnh Bắc Giang

Người làm chứng:

- Chị Hoàng Thị H, sinh năm 1999 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn Tr, xã T, TP BG, tỉnh Bắc Giang.

- Ông Hoàng Văn Th, sinh năm 1968 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn N, xã C, huyện LN, tỉnh Bắc Giang

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 19 giờ 25 phút ngày 22/10/2019, tại thôn N, xã C, huyện LN, tỉnh Bắc Giang, Tổ công tác phòng chống tội phạm ma túy Công an huyện Lục Nam phối hợp với Công an xã C tuần tra, kiểm soát và bắt quả tang Phùng Văn M, sinh năm 1998, trú tại thôn Q, xã Y, huyện LN, tỉnh Bắc Giang có hành vi Tàng trữ trái phép chất nghi ma túy. Thu giữ tại túi quần nhỏ phía trước bên phải của M đang mặc là 01 túi nilon màu trắng được hàn kín, một đầu có rãnh khóa nhựa màu trắng trên có đường viền màu đỏ bên trong đựng 09 túi nilon màu trắng được hàn kín, gồm 06 túi nilon có rãnh khóa nhựa màu trắng có viền màu xanh, bên trong đựng tinh thể màu trắng; 01 túi nilon màu trắng, bên trong đựng tinh thể màu trắng; 01 túi nilon có rãnh khóa nhựa màu trắng có viền màu xanh, bên trong đựng chất cục bột màu hồng; 01 túi nilon màu trắng một đầu có rãnh khóa nhựa bên trên có đường viền màu xanh, bên trong bám dính tinh thể màu trắng (tất cả nghi là ma túy tổng hợp). Toàn bộ số chất nghi ma túy tổng hợp được niêm phong vào phong bì thư ký hiệu "QT". Ngoài ra thu giữ của M 01 điện thoại samsung note 8 vỏ màu xanh đen và 01 xe mô tô nhãn hiệu Exciter màu đỏ-đen biển kiểm soát 98F1-208.78.

Cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lục Nam ra Lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Phùng Văn M tại thôn Quyết Tâm, xã Yên Sơn, huyện Lục Nam. Quá trình khám xét, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lục Nam không thu giữ đồ vật, tài liệu gì có liên quan đến vụ án.

Do Phùng Văn M khai nhận số ma túy khi bị quả tang có nguồn gốc là của Phạm Văn H sinh năm 1994 ở thôn M, xã Y, huyện LN nhờ cầm hộ nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lục Nam ra Lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của H. Quá trình khám xét, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lục Nam phát hiện thu giữ 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng bên trong đựng 05 vỏ túi nilon màu trắng, trên đầu có rãnh khóa nhựa màu trắng viền màu xanh và 02 túi nilon màu trắng trên đầu có rãnh khóa nhựa màu trắng (một túi có bám dính tinh thể màu trắng ghi là ma túy tổng hợp); 01 đoạn ống hút nhựa màu xanh được hàn kín một đầu, một đầu cắt vát chéo; 01 chứng minh nhân dân mang tên Phạm Văn H; trừ vỏ bao thuốc lá thì tất cả được niêm phong vào phong bì thư ký hiệu "KX".

Vật chứng thu giữ được là chất ma tuý khi bắt quả tang và khám xét tại gia đình Phạm Văn H ,Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lục Nam đã tiến hành trưng cầu giám định Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang.

Tại Kết luận giám định số 1677/KL-KTHS ngày 24/10/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang đã kết luận: Toàn bộ tinh thể màu trắng trong phong bì thư "QT" gửi giám định (09 túi) là ma túy Methamphetamine có tổng khối lượng là 1,353gam.

Tại kết luận giám định số 1924/KL-KTHS ngày 04/12/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang đã kết luận: Trong phong bì thư ký hiệu "KX" có tinh thể màu trắng bám dính trong 01 túi nilon màu trắng một đầu có rãnh khóa nhựa màu trắng là ma túy Methamphetamine, không xác định được khối lượng do mẫu vật quá ít.

Quá trình điều tra xác định được hành vi phạm tội Phùng Văn M như sau: Do quen biết nhau từ trước nên M có điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Exciter màu đỏ-đen biển kiểm soát 98F1-208.78 của bố đẻ đi đến nhà Giáp Văn Khương, sinh năm 1986, trú tại thôn Huê Vận 1, xã Bảo Sơn, huyện Lục Nam để chơi, trên đường đi thì bạn quen biết xã hội là Phạm Văn H có điện thoại đến cho M và nhờ M đến đón H đang ở tại nhà Khương. Khi đến nơi thì M thấy H và Hoàng Thị H, sinh năm 1999 ở thôn Trước, xã Tân Tiến, thành phố Bắc Giang (bạn gái của H). H đã gọi M ra nói chuyện riêng, H nói "Cầm lấy gói đồ hộ anh" và đưa cho M 01 túi nilon màu trắng bên trong đựng tinh thể màu trắng, M hiểu ý là cầm hộ ma túy tổng hợp cho H và đồng ý, M cầm túi nilon cất giấu ngay vào ngăn nhỏ ở túi quần phía trước bên phải đang mặc. Sau đó H rủ M, Hệ đi xuống nhà Hoàng Văn Th, sinh năm 1968 ở thôn N, xã C, huyện LN, khi đi H là người điều khiển xe mô tô của M.

Đến nhà Th cả ba gặp Nguyễn Văn T, sinh năm 1990 ở thôn Đ, xã B, huyện LN đang ngồi sửa xe ở sân. Trong nhà có người đàn ông tên Tiến (không rõ tên tuổi, địa chỉ cụ thể ở đâu). Tại bàn uống nước H lấy lại 01 túi nilon ma túy tổng hợp mà M cầm hộ rồi H chia nhỏ tại bàn uống nước, Th thấy vậy nên nói "để cho túi ba trăm" ý là mua ma túy tổng hợp giá 300.000 đồng, H nhận tiền của Th và đưa cho Th 01 túi nilon ma túy tổng hợp vừa chia. Khi có ma túy tổng hợp, Th đã bỏ vào coóng Th tinh có sẵn ở nhà và sử dụng cùng Tỉnh, M, H, Tiến. Chia xong, H đã cất cả vào túi nilon rồi đưa cho M cầm hộ, M nhận và cất giấu vào ngăn nhỏ ở túi quần phía trước bên phải đang mặc. Khi M đi ra ngoài để mua nước thì bị Tổ công tác phòng chống tội phạm ma túy Công an huyện Lục Nam phối hợp với Công an xã C tuần tra và bắt quả tang thu giữ toàn bộ ma túy cất giấu trong túi quần.

Quá trình điều tra M có biểu hiện tâm thần nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lục Nam tiến hành đưa Phùng Văn M đi giám định tâm thần. Tại bản kết luận giám định pháp y tâm thần theo trưng cầu số 93/KLGĐ ngày 26/11/2019 của Trung tâm pháp y tâm thần khu vực miền núi phía Bắc- Bộ y tế, kết luận: Phùng Văn M bị bệnh động kinh không có rối loạn tâm thần. Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội ngày 22/10/2019, M bị bệnh động kinh không có rối loạn tâm thần, đủ khả năng nhận thức và đủ khả năng điều khiển hành vi. Hiện tại M đủ khả năng nhận thức và đủ khả năng điều khiển hành vi.

Đi tượng Phạm Văn H đã bỏ chạy khi M bị bắt quả tang, quá trình điều tra H đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lục Nam làm việc nhưng H khai nhận không đưa ma túy tổng hợp cho M cầm và không bán ma túy tổng hợp cho Th. Do mâu thuẫn lời khai giữa H với M và Th, Tỉnh nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lục Nam đã tiến hành lần lượt đối chất giữa Phạm Văn H với Phùng Văn M, Nguyễn Văn T và Hoàng Văn Th. Kết quả đối chất các bên vẫn khai nhận như ban đầu, H không thừa nhận hành vi đã đưa ma tuý và bán ma tuý cho Phùng Văn M và Hoàng Văn Thuỷ. Với tài liệu điều tra có trong hồ sơ chưa đủ căn cứ để xử lý đối với Phạm Văn H trong vụ án này, Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, xác minh, thu thập chứng cứ, khi nào có đủ căn cứ sẽ tiến hành xử lý sau.

Ti Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lục Nam, Phùng Văn M đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như đã nêu ở trên.

Cáo trạng số 24/CT-VKS ngày 25/03/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Nam đã truy tố bị cáo Phùng Văn M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phùng Văn M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Phùng Văn M từ 15 đến 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tam giam ngày 22/10/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tch thu tiêu hủy: 01 phong bì thư ký hiệu "QT" bên trong đựng mẫu vật hoàn lại và 01 phong bì thư có ký hiệu "KX" bên trong đựng mẫu vật, cả hai phong bì có đóng dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Bắc Giang và chữ ký của giám định viên.

Trả lại anh Phạm Văn H 01 chứng minh nhân dân số 122055699 mang tên Phạm Văn H do công an tỉnh Bắc Giang cấp ngày 12/06/2018.

Trả lại bị cáo Phùng Văn M 01 điện thoại SamSung Note 8 màu xanh đen thu giữ khi bắt quả tang bị cáo Phùng Văn M.

Ngoài ra vị đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị xử lý tiền án phí hình sự sơ thẩm, và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét, đánh giá một cách khách quan, toàn diện, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Công an huyện Lục Nam, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Nam, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Đi với người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng trong vụ án đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do. Xét thấy quá trình điều tra đã có đầy đủ lời khai lưu tại hồ sơ vụ án nên việc vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử. Căn cứ vào Điều 292, 293 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt những người trên.

[2] Về các chứng cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo Hội đồng xét xử xét thấy: Tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã khai nhận về toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng đã nêu. Lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, phù hợp với tang vật thu giữ được về thời gian, không gian, địa điểm nơi xảy ra vụ án và các tài liệu khác có trong hồ sơ. Như vậy đã có đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 19 giờ ngày 22/10/2019, tại thôn N, xã C, huyện LN, tỉnh Bắc Giang, khi Phùng Văn M đang có hành vi tàng trữ trái phép 1,353 gam ma tuý Methamphetamine thì bị Tổ công tác phòng chống tội phạm ma túy Công an huyện Lục Nam phối hợp với Công an xã C, huyện Lục Nam tuần tra phát hiện, bắt quả tang, thu giữ toàn bộ tang vật.

Tại bản kết luận giám định pháp y tâm thần theo trưng cầu số 93/KLGĐ ngày 26/11/2019 của Trung tâm pháp y tâm thần khu vực miền núi phía Bắc- Bộ y tế, kết luận: Phùng Văn M bị bệnh động kinh không có rối loạn tâm thần. Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội ngày 22/10/2019, M bị bệnh động kinh không có rối loạn tâm thần, đủ khả năng nhận thức và đủ khả năng điều khiển hành vi. Hiện tại M đủ khả năng nhận thức và đủ khả năng điều khiển hành vi.

Như vậy hành vi của bị cáo Phùng Văn M đã đủ yếu tố cấu thành của tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Việc bị cáo bị truy tố, xét xử ngày hôm nay với tội danh và điều luật viện dẫn ở trên là hoàn toàn đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Trong tình hình xã hội hiện nay, tệ nạn ma túy đang là vấn đề nhức nhối cho xã hội và ngày càng có diễn biến phức tạp, nó là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến nhiều loại tội phạm và vi phạm pháp luật khác, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe con người, là một trong những nguyên nhân phá vỡ hạnh phúc gia đình, suy thoái đạo đức xã hội. Do đó cần phải xử lý về hình sự đối với bị cáo để giáo dục bị cáo trở thành công dân biết tuân thủ pháp luật.

[4] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo Hội đồng xét xử thấy:

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng nào. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, gia đình bị cáo hiện đang thờ cúng liệt sỹ PH Văn Hồi là bác ruột của bị cáo, nên cần áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình thể hiện sự khoan hồng của pháp luật xã hội chủ nghĩa.

Từ những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo trong vụ án HĐXX xét thấy, bị cáo có nhân thân tốt, bị cáo xuất thân từ thành phần nhân dân lao động, bản thân bị cáo bị bệnh động kinh, do không am hiểu pháp luật nhất thời hành động nông nổi bồng bột của tuổi trẻ nên đã phạm tội, bị cáo phạm tội với lỗi cố ý do vậy cần phải xử lý đối với bị cáo với mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra và cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian cần thiết để giáo dục riêng đối với bị cáo và góp phần răn đe phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.

Về hình phạt bổ sung bằng tiền: Do bị cáo không có nghề nghiệp ổn định và sống cùng bố mẹ nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng:

Quá trình điều tra xác minh thấy xe mô tô nhãn hiệu Exciter màu đỏ-đen biển số 98F1-208.78 mang tên ông PH Văn V là bố đẻ của M, ông Vỹ không biết và không liên quan đến hành vi phạm tội của M nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lục Nam đã xử lý vật chứng trả lại xe mô tô cho ông Vỹ để quản lý và sử dụng. Nên HĐXX không đặt ra xem xét giải quyết.

Đi với 01 chứng minh nhân dân mang tên Phạm Văn H thu giữ khi khám xét nơi ở của anh H, đây là tài sản riêng của anh H không liên quan đến vụ án nên HĐXX thấy cần áp dụng khoản 3 Điều 106 BLTTHS để trả lại cho anh Phạm Văn H.

Đi với 01 điện thoại SamSung Note 8 màu xanh đen thu giữ khi bắt quả tang bị cáo Phùng Văn M, đây là tài sản của bị cáo M, bị cáo M không dùng vào việc phạm tội nên HĐXX thấy cần áp dụng khoản 3 Điều 106 BLTTHS để trả lại cho bị cáo Phùng Văn M nhưng tạm giữ lại để đảm bảo thi hành án;

Đi với 01 phong bì thư ký hiệu "QT" bên trong đựng mẫu vật hoàn lại và 01 phong bì thư có ký hiệu "KX" bên trong đựng mẫu vật, cả hai phong bì có đóng dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Bắc Giang và chữ ký của giám định viên đây là vật chứng trong vụ án thuộc loại cấm lưu hành, nên HĐXX thấy cần áp dụng c khoản 1 Điều 47 BLHS, điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS để tịch thu tiêu hủy.

[6] Đi tượng Phạm Văn H đã bỏ chạy khi M bị bắt quả tang, quá trình điều tra H đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lục Nam làm việc nhưng H khai nhận không đưa ma túy tổng hợp cho M cầm và không bán ma túy tổng hợp cho Th. Do mâu thuẫn lời khai giữa H với M và Th, Tỉnh nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lục Nam đã tiến hành lần lượt đối chất giữa Phạm Văn H với Phùng Văn M, Nguyễn Văn T và Hoàng Văn Th. Kết quả đối chất các bên vẫn khai nhận như ban đầu, H không thừa nhận hành vi đã đưa ma tuý và bán ma tuý cho Phùng Văn M và Hoàng Văn Th. Với tài liệu điều tra có trong hồ sơ chưa đủ căn cứ để xử lý đối với Phạm Văn H trong vụ án này, Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, xác minh, thu thập chứng cứ, khi nào có đủ căn cứ sẽ tiến hành xử lý sau. HĐXX xét thấy là phù hợp với quy định của pháp luật nên không đặt ra xem xét giải quyết.

Quá trình khám xét có thu giữ tại nhà H có túi nilon màu trắng có bám dính tinh thể màu trắng, kết quả giám định cho thấy tinh thể bám dính là ma túy tổng hợp Methamphetamine, nhưng không xác định được khối lượng do ít, bản thân H bị kiểm tra có dương tính đối với ma túy tổng hợp, H khai nhận là ma túy mua của người lạ về sử dụng nên không có căn cứ xử lý trách nhiệm hình sự đối với H mà chỉ xử phạt vi phạm hành chính đối với H. HĐXX xét thấy là phù hợp với quy định của pháp luật nên không đặt ra xem xét giải quyết.

Đi với Phùng Văn M, Nguyễn Văn T, Hoàng Văn Th bị kiểm tra cơ thể cho kết quả dương tính với ma túy tổng hợp và ba người đều khai nhận về việc sử dụng ma túy tổng hợp vào ngày 22/10/2019 tại nhà Th nên ngày 06/12/2019, Công an huyện Lục Nam đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với từng người theo quy định tại Nghị định số 167/CP, ngày 12/11/2013 của Chính phủ. HĐXX xét thấy là phù hợp với quy định của pháp luật nên không đặt ra xem xét giải quyết.

Đi với người đàn ông tên Tiến không rõ tên tuổi, địa chỉ ở đâu nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lục Nam không có căn cứ xác minh làm rõ; đối tượng Hoàng Thị H đã khai nhận không sử dụng ma túy, không liên quan đến hành vi phạm tội của M nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lục Nam không đề cập xử lý. HĐXX xét thấy là phù hợp với quy định của pháp luật nên không đặt ra xem xét giải quyết.

[7] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Áp dụng khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Nghị quyết quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Phùng Văn M phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phùng Văn M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Phùng Văn M 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 22/10/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

2. Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; khoản 1, khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tch thu tiêu hủy: 01 phong bì thư ký hiệu "QT" bên trong đựng mẫu vật hoàn lại và 01 phong bì thư có ký hiệu "KX" bên trong đựng mẫu vật, cả hai phong bì có đóng dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Bắc Giang và chữ ký của giám định viên.

Trả lại anh Phạm Văn H 01 chứng minh nhân dân số 122055699 mang tên Phạm Văn H do công an tỉnh Bắc Giang cấp ngày 12/06/2018.

Trả lại bị cáo Phùng Văn M 01 điện thoại SamSung Note 8 màu xanh đen thu giữ khi bắt quả tang bị cáo Phùng Văn M nhưng được giữ lại đảm bảo thi hành án.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, Nghị quyết quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Phùng Văn M phải chịu 200.000 đồng án phí HSST, Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Bị cáo, người có quyền lợi liên quan có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2020/HS-ST ngày 11/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:25/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lục Nam - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về