TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẬP THẠCH, TỈNH VĨNH PHÚC
BẢN ÁN 23/2021/HNGĐ-ST NGÀY 21/06/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 21 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 43/2021/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 3 năm 2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 43/20201/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 5 năm 2021 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị K, sinh năm 1990; trú tại: Thôn B, xã Đ, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc (có mặt);
- Bị đơn: Anh Đặng Ngọc T, sinh năm 1984; trú tại: Thôn B, xã Đ, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc; hiện đang chấp hành án tại Trại tạm giam Công an tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn xin ly hôn đề ngày 26/8/2020 và các lời khai tiếp theo, nguyên đơn chị Nguyễn Thị K trình bày:
Chị kết hôn với anh Đặng Ngọc T ngày 29/12/2008 và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện L trên cơ sở tự nguyện. Sau khi cưới, vợ chồng chị sống ở nhà bố mẹ đẻ anh T. Ban đầu vợ chồng sống hòa thuận, đến giữa đầu năm 2019 vợ chồng bắt đầu xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh T không chịu khó làm ăn, thường xuyên chơi bời, cờ bạc lô đề dẫn đến nợ lần, chị đã khuyên bảo anh T nhiều lần nhưng anh không nghe nên anh T đi vào thành phố Hồ Chí Minh làm thuê, còn chị cũng đưa hai con về nhà mẹ đẻ sống từ đó cho đến nay. Trong thời gian vợ chồng sống ly thân thì hai bên vẫn xảy ra mâu thuẫn và anh T nhiều lần đe dọa giết chị nên vào ngày 09/11/2019 chị trên đường đi làm, anh T đã chặn đường rồi dùng dao chém chị, sau đó anh T bị Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 12 năm tù về tội Giết người. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn cho chị với anh T.
Về con chung: Vợ chồng chị có 02 con chung là cháu Đặng Thị Thu T, sinh ngày 16/7/2009 và cháu Đặng Quang H, sinh ngày 04/9/2012, hiện nay hai cháu đang ở với chị, ly hôn chị đề nghị được nuôi cả hai cháu và không đề nghị anh T phải cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung, về tài sản riêng, công nợ, công sức đóng góp: Không đề nghị Tòa án giải quyết.
Bị đơn anh Đặng Ngọc T trình bày: Anh kết hôn với chị K và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ ngày 29/12/2008 trên cơ sở tự nguyện không bị ép buộc gì, sau khi cưới hai vợ chồng về nhà bố mẹ đẻ anh sinh sống, đến năm 2019 anh đi vào Miền nam làm ăn, còn chị K về nhà bố mẹ đẻ chị K sinh sống. Trong quá trình chung sống, ban đầu hai vợ chồng sống hòa thuận không có mâu thuẫn gì, đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do kinh tế khó khăn nên vợ chồng thường xảy ra cãi nhau. Đến ngày 09/11/2019 anh có dùng dao chém chị K và bị Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 12 năm tù về tội giết người. Nay chị K xin ly hôn anh không đồng ý, đề nghị Tòa án giải quyết cho hai vợ chồng đoàn tụ để nuôi dạy con.
Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Đặng Thị Thu T, sinh ngày 16/7/2009 và cháu Đặng Quang H, sinh ngày 04/9/2012, hiện nay hai cháu đang ở với chị K, nếu ly hôn anh để chị K nuôi cả hai cháu.
Về tài sản chung, về tài sản riêng, công nợ, công sức đóng góp: Không đề nghị Tòa án giải quyết.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lập Thạch tham gia phiên toà phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Tòa án nhân dân huyện Lập Thạch thụ lý vụ án hôn nhân gia đình về việc ly hôn là đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Từ khi thu lý vụ án đến khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Thẩm phán tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc thông báo thụ lý vụ án, thu thập tài liệu, chứng cứ theo đúng quy định pháp luật. Tại phiên toà, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự từ khi khai mạc phiên toà đến khi nghị án, đảm bảo vô tư, khách quan, đúng quy định pháp luật.
Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị K với anh T, giao cháu Đặng Thị Thu T và cháu Đặng Quang H cho chị K trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử, xét thấy:
[1]. Về áp dụng pháp luật tố tụng: Yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn là chị Nguyễn Thị K đối với bị đơn là anh Đặng Ngọc T. Vì vậy, quan hệ pháp luật trong vụ án là tranh chấp hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2]. Về pháp luật áp dụng giải quyết vụ án: Ngày 17/3/2021 chị Nguyễn Thị K có đơn xin ly hôn với anh Đặng Ngọc T. Vì vậy pháp luật áp dụng để giải quyết vụ án là Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
[3]. Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Đặng Ngọc T có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[4]. Về quan hệ hôn nhân: Trong quá trình giải quyết vụ án, thể hiện việc kết hôn giữa chị K và anh T trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện L. Do đó quan hệ hôn nhân giữa chị K và anh T là hợp pháp. Quá trình chung sống của vợ chồng, theo chị K thì ban đầu hai vợ chồng sống hòa thuận không có mâu thuẫn gì, nhưng đến đầu năm 2019 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do anh T chơi bời không chịu làm ăn, chị đã khuyên giải nhiều nhưng anh T không nghe, sau đó hai vợ chồng sống ly thân từ giữa năm 2019 cho đến nay. Ngày 09/11/2019 anh T dùng dao chém chị K nên anh T bị Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 12 năm tù về tội giết người. Anh T cũng thừa nhận hai vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn nguyên nhân là do vấn đề kinh tế khó khăn sau đó anh dùng dao chém chị K và đã bị kết án về tội giết người.
Tại Bản án số 23/2020/HS-ST ngày 12/5/2020, Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt anh Đặng Ngọc T 12 năm tù về tội giết người, người bị hại là chị Nguyễn Thị K. Việc hai vợ chồng thường xuyên cãi chửi nhau, anh T dùng dao chém chị K và đã bị kết án, việc hai vợ chồng không cùng chung sống nên không thể quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau và không cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình và anh T đã xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của vợ được pháp luật bảo vệ. Đó là nguyên nhân của những mâu thuẫn vợ chồng nảy sinh và ngày càng trầm trọng không thể giải quyết được. Xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị K và anh T đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Nên cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị K.
[5]. Về con chung: Vợ chồng chị K, anh T có 02 cháu là cháu Đặng Thị Thu T, sinh ngày 16/7/2009 và cháu Đặng Quang H, sinh ngày 04/9/2012, hiện nay cả hai cháu đang ở cùng chị K, ly hôn chị K xin được nuôi cả hai, anh T cũng đồng ý để chị K nuôi cả hai. Hiện anh T đang chấp hành hình phạt tù không có điều kiện trực tiếp để nuôi con nên cần giao hai cháu cho chị K trực tiếp nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng chị K tự nguyện không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung nên cần chấp nhận.
[6]. Tài sản chung, tài sản riêng, công nợ, công sức: Chị K, anh T không đề nghị Tòa án giải quyết.
[7]. Về án phí: Chị Nguyễn Thị K phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Điều 51, 56, 57, 81, 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 228, khoản 1, 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử:
Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị K với anh Đặng Ngọc T.
Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị K trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Đặng Thị Thu T, sinh ngày 16/7/2009 và cháu Đặng Quang H, sinh ngày 04/9/2012. Anh T không ai phải đóng góp, cấp dưỡng nuôi con chung. Không ai được cản trở quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung sau ly hôn.
Về án phí: Chị Nguyễn Thị K phải nộp 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số AA/2020/0001143 ngày 29/3/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lập Thạch. Chị K đã nộp đủ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.
Đương sự có mặt có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo Bản án trong thời gian 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.
Bản án 23/2021/HNGĐ-ST ngày 21/06/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình
Số hiệu: | 23/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lập Thạch - Vĩnh Phúc |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 21/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về