Bản án 23/2019/HSST ngày 13/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 23/2019/HSST NGÀY 13/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 3 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 1 xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 16/2019/TLST-HS ngày 25 tháng 01 năm 2019 Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 61/2019/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

Tạ Hoàng Đ, sinh ngày 08 tháng 6 năm 1992, tại Phú Yên; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Khu phố 4, thị trấn X, huyện H, tỉnh P; chỗ ở hiện nay: Phòng 221, lầu 2, chung cư số 134 đường Trần Hưng Đạo, phường X, Quận Y, Thành phố H; nghề nghiệp: Nhân viên phục vụ; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; con ông Tạ Văn Minh và bà Phan Thị M; có vợ Nguyễn Thị N và có 01 con sinh năm 2016; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam ngày 12/11/2018 tại nhà tạm giữ Công an Quận 1. (có mặt)

 Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Bà Phạm Thị G, sinh năm: 1970

- Bà Nguyễn Thị N, sinh năm: 1994

Cùng cư trú: Khu phố 4, thị trấn X, huyện Y, tỉnh P. (bà N có mặt, bà G vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tạ Hoàng Đ là nhân viên phục vụ quán Karaoke Milan số 357 đường Phạm Ngũ Lão, phường Phạm Ngũ Lão, Quận 1, trong quá trình làm việc do có nhu cầu sử dụng ma túy nên Đ đã cất giấu 01 túi nylon chứa 02 mảnh vụn viên nén là ma túy tổng hợp. Trong đó 01 mảnh màu tím do một nhân viên làm cùng quán nhặt được đưa cho Đ, 01 mảnh màu vàng do khách cho nên Đ cho vào trong túi da màu đen đeo bên người để sử dụng. Đến 21 giờ 30 phút ngày 12/11/2018, khi đang chơi game tại cửa hàng game số 126 đường Nguyễn Văn Cừ, phường Nguyễn Cư Trinh, Quận 1, do có biểu hiện nghi vấn nên Công an yêu cầu Đ về trụ sở Công an phường Nguyễn Cư Trinh, Quận 1 để kiểm tra làm rõ. Qua kiểm tra Đ tự lấy từ trong túi da màu đen đeo chéo trên người 01 túi nylon có 02 mảnh vụn viên nén màu tím và màu vàng, Đ khai là ma túy nên tiến hành thu giữ vật chứng và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Tại cơ quan điều tra, Đ khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Theo bản kết luận giám định số: 1847/KLGĐ-H ngày 19/11/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: 01 mảnh vụn viên nén màu vàng là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1469g, loại MDMA; 01 mảnh vụn viên nén màu tím là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,2375g, loại MDMA.

Bản cáo trạng số: 29/CT-VKSQ1 ngày 24/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 đã truy tố bị cáo Tạ Hoàng Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Ti phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh tụng: Sau khi kiểm tra đầy đủ các chứng cứ buộc tội, gỡ tội và các tình tiết khác của vụ án, bị cáo đã thừa nhận hành vi sai trái do bị cáo gây ra tương tự như nội dung bản cáo trạng đã nêu, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ. Như vậy, hành vi phạm tội của bị cáo đã có đủ cơ sở để kết luận bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa b ị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và chưa có tiền án, tiền sự nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, phạt tiền bị cáo 5.000.000 (năm triệu) đồng.

Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu, tiêu hủy 01 gói niêm phong ghi vụ số 1847/18Q1 chứa chất ma túy bên trong có 0,3844g, loại MDMA (mẫu vật còn lại sau khi sử dụng phục vụ công tác giám định); 01 túi da màu đen.

- Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Nokia Seri: 359835019063144; 01 chứng minh nhân dân tên Tạ Hoàng Đ; 01 giấy phép lái xe tên Tạ Hoàng Đ; 01 bật lửa có khắc chữ Zippo; 01 cục sạc và dây sạc điện thoại và số tiền 19.000.000 đồng nhưng cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án sau này.

Tại phiên tòa, bị cáo Tạ Hoàng Đ đã khai nhận hành vi phạm tội như kết luận điều tra và cáo trạng truy tố, bị cáo không có ý kiến tranh tụng gì và nói lời sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và vụ án còn được chứng minh bằng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như các biên bản hoạt động điều tra, biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung, tờ tự khai, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định,… nên có căn cứ để kết luận bị cáo Tạ Hoàng Đ đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, với khối lượng là 0,3844g, ma túy ở thể rắn, loại MDMA. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Tạ Hoàng Đ đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 1, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và tại phiên tòa không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thực hiện với quyết tâm cao. Bị cáo đủ nhận thức để biết rõ tác hại của ma túy nhưng vì muốn thỏa mãn với động cơ cá nhân nên bất chấp xem thường pháp luật cố tình phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm hại đến chế độ quản lý độc quyền các chất gây nghiện của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự xã hội là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội và các tội phạm khác nên cần có mức án nghiêm để giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và chưa có tiền án, tiền sự. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Xét tính chất mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải nộp một khoản tiền nhất định để sung quỹ Nhà nước.

[6] Đối với người nhân viên tên Đức làm việc tại quán Karaoke Milan và người khách cho ma túy cho bị cáo Đ, quá trình điều tra chưa xác định được nhân thân lai lịch, cơ quan điều tra Công an Quận 1 tiếp tục xác minh làm rõ có cơ sở xử lý sau.

[7] Vật chứng của vụ án:

- Đối với 01 gói niêm phong ghi vụ số 1847/18Q1 chứa chất ma túy bên trong có 0,3844g, loại MDMA (mẫu vật còn lại sau khi sử dụng phục vụ công tác giám định); 01 túi da màu đen cần tịch thu, tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia Seri: 359835019063144; 01 chứng minh nhân dân tên Tạ Hoàng Đ; 01 giấy phép lái xe tên Tạ Hoàng Đ; 01 bật lửa có khắc chữ Zippo; 01 cục sạc, dây sạc điện thoại và số tiền 19.000.000 đồng thu giữ của bị cáo Đ, xét thấy không liên quan đến vụ án nên cần xem xét để trả lại cho bị cáo nhưng cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án sau này.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định tại Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và khoản 1 Điều 21 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy: Tuyên bố: Tạ Hoàng Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; phạt bị cáo Tạ Hoàng Đ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12/11/2018.

Buộc bị cáo Tạ Hoàng Đ phải nộp phạt 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) để sung vào công quỹ Nhà nước.

Việc bị cáo nộp số tiền phạt nêu trên phải được thực hiện một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

khon 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Tịch thu tiêu hủy 01 (một) gói niêm phong ghi vụ số 1847/18Q1 chứa chất ma túy.

(Theo Phiếu nhập kho vật chứng số: 08/19-PNK ngày 11/12/2018 của Công an Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh) Tịch thu tiêu hủy 01 (một) túi da màu đen.

(Theo Phiếu nhập kho vật chứng số: 01/19-PNK ngày 20/11/2018 của Công an Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh) Trả lại bị cáo Tạ Hoàng Đ 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia Seri: 359835019063144; 01 (một) chứng minh nhân dân tên Tạ Hoàng Đ; 01 (một) giấy phép lái xe tên Tạ Hoàng Đ; 01 (một) bật lửa có khắc chữ Zippo; 01 (một) cục sạc, dây sạc điện thoại và số tiền 19.000.000 đồng (mười chín triệu đồng), nhưng cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án sau này.

(Theo Phiếu nhập kho vật chứng số: 01/19-PNK ngày 20/11/2018 của Công an Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh) Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và khoản 1 Điều 21 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; bị cáo Tạ Hoàng Đ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền phải thi hành án, hàng tháng bị cáo còn phải chịu khoản tiền lãi theo mức lãi suất quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 357 của Bộ luật dân sự năm 2015.

Áp dụng Điều 26 Luật thi hành án dân sự; trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bị cáo Tạ Hoàng Đ, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị N được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tòa tuyên án. Đối với người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày được giao bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2019/HSST ngày 13/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:23/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 1 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về