TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 230/2019/HS-ST NGÀY 28/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 28 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 229/2019/TLST-HS ngày 06 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 906/2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:
Họ và tên: Lê D, sinh năm 1984 tại Cà Mau; nơi thường trú: số 59B, đường P, khóm 3, phường N, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: tài xế; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Chí X và bà Nguyễn Ngọc T; vợ Hồ Huỳnh N, con: chưa có; tiền sự: 01 lần. Ngày 22/5/2019, bị Trưởng Công an thành phố Cà Mau ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Đánh bạc” và phạt số tiền 1.500.000đ, bị cáo đã nộp phạt ngày 23/5/2019; tiền án: 01 lần. Ngày 20/6/2017, bị Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999, chấp hành xong hình phạt ngày 03/7/2018; nhân thân: đã bị xử lý vi phạm hành chính, có án tích; bị tạm giữ từ ngày 24/7/2019 đến ngày 27/7/2019 thì bị bắt, tạm giam cho đến nay (có mặt).
Người bào chữa cho bị cáo: Ông Đặng Minh Hải, Luật sư của Văn phòng luật sư Minh Hải thuộc Đoàn luật sư tỉnh Cà Mau bào chữa cho Lê D (xin vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 21 giờ ngày 24/7/2019, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Cà Mau kết hợp với Đội điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Cà Mau, Công an phường N, thành phố Cà Mau và Cảnh sát biển tiến hành bắt quả tang Lê D đang cất giữ trái phép chất ma túy tại nhà thuộc số 59B, đường P, khóm 3, phường N, thành phố Cà Mau nên lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ gồm:
Thu giữ trong bồn cầu vệ sinh tại tầng 1 của nhà D một đoạn ống nhựa được hàn kín hai đầu bên trong ống nhựa có chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy được niêm phong trong phong bì hình chữ nhật có đóng dấu của Công an phường N cùng chữ ký của D, chữ ký điều tra viên Diệp Hùng Tươi, Tiết Hoàng Huy và Công an phường N, thành phố Cà Mau ký hiệu M1/2019; một ống nỏ bằng thủy tinh dùng để sử dụng chất ma túy bên trong có chứa tinh thể màu trắng được niêm phong trong phong bì hình chữ nhật có đóng dấu của Công an phường N cùng chữ ký của D, chữ ký điều tra viên Diệp Hùng Tươi, Tiết Hoàng Huy và Công an phường N, thành phố Cà Mau, ký hiệu M2/2019; một bình tự chế dùng để sử dụng trái phép chất ma túy tại phòng khách nhà D và một điện thoại di động Samsung màu đen đã qua sử dụng.
Tại Kết luận giám định số: 123/GĐH/PC09 ngày 26/7/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cà Mau, kết luận:
- Mẫu tinh thể màu trắng bên trong đoạn ống nhựa hàn kín hai đầu, được niêm phong gửi giám định có ký hiệu M.01/2019 là ma túy, có khối lượng 0,1510 gam, loại Methamphetamine.
- Không tiến hành giám định mẫu ký hiệu M.02/2019 gửi giám định do không đủ yếu tố giám định (khối lượng không đủ giám định, không cân được khối lượng).
Hoàn lại 0,1086 gam mẫu ký hiệu M.01/2019 được niêm phong trong phong bì số: 123a/GĐH-PC09 ngày 26/7/2019 sau khi trích giám định và không lưu.
Hoàn lại mẫu ký hiệu M.02/2019 gửi giám định sau khi mở niêm phong kiểm tra, được niêm phong trong phong bì số: 123b/GĐH-PC09 ngày 26/7/2019.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Lê D khai nhận: Ngày 17/7/2019, bị cáo điều khiển xe mô tô trên đường Nguyễn Trãi thuộc phường 9, thành phố Cà Mau thì gặp người bạn tên Tuấn (không rõ họ, địa chỉ) rủ bị cáo mua ma túy ủng hộ Tuấn. Lúc này, bị cáo kêu Tuấn bán 500.000đ ma túy thì Tuấn đưa cho bị cáo một ống nhựa được hàn kín hai đầu bên trong có chứa ma túy, bị cáo cất vào túi quần và mang về nhà giấu vào trong tủ đến khoảng 21 giờ ngày 24/7/2019, bị cáo lấy một ít ma túy trong ống nhựa bỏ vào nỏ thủy tinh để sử dụng, số ma túy còn lại trong ống nhựa thì hàn kín hai đầu lại. Khi đang sử dụng, bị cáo bị Công an đến bắt quả tang cùng tang vật.
Tại Cáo trạng số: 228/CT-VKS ngày 05/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau đã truy tố bị cáo Lê D về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà, Kiểm sát viên trình bày lời luận tội vẫn giữ quan điểm truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù; Về vật chứng, tịch thu tiêu hủy mẫu vật được hoàn lại sau khi trích giám định và một bình tự chế dùng để sử dụng ma túy. Đối với tên Tuấn bán ma túy cho bị cáo, do không rõ họ, địa chỉ nên Viện kiểm sát đề nghị tách ra, giao Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cà Mau tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.
Bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa cho bị cáo và thống nhất với bài bào chữa của Luật sư mà Hội đồng xét xử công bố, thống nhất với luận tội của Viện kiểm sát nên không có ý kiến gì khác nhưng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Cà Mau, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
[2] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với kết luận giám định cùng các chứng cứ khác được thu thập trong quá trình điều tra nên có cơ sở để xác định vào khoảng 21 giờ 00 phút ngày 24/7/2019 tại nhà số 59B thuộc khóm 3, phường N, thành phố Cà Mau, bị cáo Lê D đã và đang cất giữ trái phép chất ma tuý loại Methamphetamine có khối lượng 0,1510 gam nhằm mục đích sử dụng thì bị bắt quả tang cùng tang vật.
Việc cất giữ chất ma tuý trên của bị cáo là không hợp pháp, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức và biết được tác hại của ma tuý nhưng vẫn thực hiện tội phạm với lỗi cố ý trực tiếp. Hơn nữa, khối lượng ma túy các bị cáo tàng trữ theo kết luận giám định thuộc tình tiết tăng nặng định khung hình phạt nên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ.
[2] Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, bởi chính tác hại của ma tuý gây ức chế về thần kinh, tạo ảo giác mạnh cho người sử dụng, làm ảnh hưởng đến sức khỏe và sự phát triển giống nòi, là mầm móng cho việc lây lan bệnh tật, gián tiếp gây ra các tệ nạn xã hội khác. Bản thân bị cáo đã có 01 tiền án cũng về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999, đã chấp hành xong hình phạt vào ngày 03/7/2018 thế nhưng, khi trở về hòa nhập với cộng đồng bị cáo không tự cai nghiện được lại tiếp tục dấn thân vào con đường phạm tội nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự cho bị cáo là phù hợp.
Với đánh giá nêu trên, Hội đồng xét xử thấy rằng tuy bị cáo có một tiền án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng thời điểm xét xử bị cáo áp dụng Bộ luật Hình sự năm 1999 nên hình phạt đối với loại tội này cao hơn so với Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) và khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ cao hơn không đáng kể so với khối lượng ma túy được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự (khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ là 0,1510 gam; khối lượng ma túy quy định tại điểm c là từ 0,1 gam đến dưới 05 gam) nên mức hình phạt của Kiểm sát viên đề nghị là có căn cứ, tương xứng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện.
[3] Về vật chứng của vụ án, Cơ quan giám định đã hoàn lại hai phong bì niêm phong sau khi trích giám định số 123a và 123b-GĐH/PC09 ngày 26/7/2019 cùng một bình tự chế dùng để sử dụng ma túy nên cần tịch thu, tiêu hủy.
Đối với các tài sản khác, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cà Mau đã xử lý trong quá trình điều tra, nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét, giải quyết.
Đối với đối tượng tên Tuấn bán ma túy cho bị cáo, hiện không rõ họ và địa chỉ nên không mời làm việc được. Do đó, Kiểm sát viên đề nghị tách ra, giao Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cà Mau tiếp tục xác minh làm rõ, có căn cứ xử lý sau là phù hợp.
[4] Về tố tụng, người bào chữa cho bị cáo có đơn xin xét xử vắng mặt do bận công việc đột xuất và có gửi bài phát biểu bào chữa cho bị cáo, bị cáo cũng đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa nên Hội đồng xét xử nhận thấy việc vắng mặt của người bào chữa tại phiên tòa vẫn đảm bảo quyền lợi cho bị cáo. Vì vậy, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[5] Về án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo phải chịu theo quy định tại các Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 và điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự và các Điều 106, 135, 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự.
Căn cứ vào Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
- Tuyên bố bị cáo Lê D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Lê D 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/7/2019.
- Về vật chứng:
Tịch thu, tiêu hủy hai phong bì niêm phong sau khi trích giám định hoàn lại số 123a và 123b-GĐH/PC09 ngày 26/7/2019 cùng một bình tự chế dùng để sử dụng ma túy.
- Về án phí:
Án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo Lê D phải chịu số tiền là 200.000đ (hai trăm nghìn đồng, chưa nộp).
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 230/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 230/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về