TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ - TỈNH HÀ NAM
BẢN ÁN 22/2019/HS-ST NGÀY 04/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 04 tháng 03 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 11/2019/TLST-HS ngày 23/01/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2019/QĐXXST-HS ngày 20/02/2019 đối với bị cáo:
Nguyễn Mạnh Đ, sinh năm 1991 tại Hà Nam; nơi cư trú: Thôn H, xã N, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Đ và bà Đỗ Thị K; có vợ là Nguyễn Thị C, sinh năm 1989 và 02 con, lớn sinh năm 2014, nhỏ sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tốt; bị bắt, tạm giữ ngày 07/12/2018, tạm giam từ ngày 13/12/2018 đến nay; có mặt.
- Người làm chứng: Anh Hà Văn T, sinh năm 1992; trú tại: Thôn T, xã L, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 07 giờ ngày 07/12/2018, Nguyễn Mạnh Đ điều khiển xe môtô BKS: 90B2-742... đang đi trên đường Quốc lộ 21A thuộc huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam thì gặp một người nam thanh niên (Đ không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể) xin đi nhờ xe đến cầu vượt Liêm Tuyền thuộc xã Liêm Tuyền, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam. Trên đường đi, người thanh niên hỏi Đ: “Em có chơi bời gì không?”, hiểu ý người thanh niên đó hỏi có sử dụng ma túy không nên Đ trả lời:“Trước đó em có chơi”, người đó nói:“Còn tiền không đưa anh lấy một quả cùng chơi”, Đ hỏi: “Ở đây bao nhiêu tiền một cái” thì người đó trả lời:“Một trăm nghìn”. Khi Đ điều khiển xe môtô đi đến một ngõ nhỏ thuộc xóm 3, xã Liêm Chung, thành phố Phủ Lý thì người thanh niên bảo Đ dừng xe lại, Đ lấy ra số tiền 100.000 đồng đưa cho người thanh niên, người đó nói:“Chờ anh một tý” rồi đi bộ vào trong ngõ một lát sau quay lại đưa cho Đ một vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, biết bên trong vỏ bao thuốc lá có ma túy, Đ cầm lấy giữ trong lòng bàn tay phải rồi cùng người thanh niên đi tìm nơi sử dụng ma túy. Khi đi được một đoạn thì Đ và người thanh niên bị tổ tuần tra Phòng cảnh sát giao thông Công an tỉnh Hà Nam yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Người thanh niên xuống xe bỏ chạy thoát còn Đ tự giác giao nộp cho lực lượng Công an vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, mở ra kiểm tra có 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục Đ khai nhận đó là ma túy, cất giấu để sử dụng.
Vật chứng, tài sản thu giữ của Nguyễn Mạnh Đ gồm: 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng; 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO và 01 xe môtô nhãn hiệu HONDA, BKS: 90B2-742...
Tại bản Kết luận giám định số 198/PC09-MT ngày 11/12/2018, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận: “Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,149 gam, loại Heroine”.
Bản cáo trạng số 11/CT-VKS-PL ngày 21/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố Nguyễn Mạnh Đ về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý thực hành quyền công tố giữ nguyên quan điểm không thay đổi, bổ sung về nội dung đã truy tố đối với bị cáo Nguyễn Mạnh Đ, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự:
- Xử phạt Nguyễn Mạnh Đ từ 24 tháng đến 30 tháng tù.
- Xử lý vật chứng của vụ án theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Mạnh Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Đối với người tham gia tố tụng là người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
[3] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Mạnh Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa, phù hợp với các chứng cứ của vụ án như biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng, kết luận giám định về chất ma túy, lời khai của người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ của vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 07/12/2018, tại khu vực xóm 3, xã Liêm Chung, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, Nguyễn Mạnh Đ bị lực lượng cảnh sát giao thông Công an tỉnh Hà Nam bắt giữ quả tang đang cất giấu trái phép 0,149 gam Heroine, mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.
[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:
Về nhân thân: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, có nhân thân tốt do chưa có tiền án, tiền sự.
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.
Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; có người thân (bố đẻ) là thương binh loại 2/4 là người có công với đất nước nên sẽ được hưởng các tình tiết giảm nhẹ pháp luật quy định.
[5] Về hình phạt:
Hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, mức độ nghiêm trọng, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy và các chất gây nghiện trực tiếp là các hoạt động cất giữ, tàng trữ chất ma túy, gây mất trật tự, an toàn cho xã hội, làm nảy sinh tệ nạn ma túy là mầm mống, nguyên nhân phát sinh các tội phạm khác. Vì vậy, cần có mức án nghiêm khắc, tương xứng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm bị cáo đã thực hiện mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo thành người có ích đồng thời nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm.
Hình phạt bổ sung: Do bị cáo bản thân nghiện ma túy, không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung (như phạt tiền, tịch thu tài sản…) đối với bị cáo.
[6] Đối với người nam thanh niên Đ khai là người gặp dọc đường, đã đi mua ma túy đưa cho bị cáo để sử dụng, do Cơ quan điều tra không xác định được đặc điểm nhân thân, địa chỉ của người này nên chưa có cơ sở để xem xét, xử lý là có căn cứ.
[7] Về vật chứng và xử lý vật chứng đã thu giữ:
+ Đối với chiếc xe môtô BKS: 90B2-742..., quá trình điều tra đã xác định là tài sản hợp pháp của bị cáo, được bị cáo sử dụng làm phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội nên sẽ bị tịch thu, sung vào ngân sách Nhà nước.
+ Đối với 01 chiếc điện thoại di động OPPO màu vàng quá trình điều tra đã xác định là tài sản hợp pháp của bị cáo, không liên quan đến tội phạm nên sẽ trả lại cho bị cáo.
+ Đối với toàn bộ số Heroine hoàn trả sau giám định cùng bao gói; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long là vật cấm tàng trữ và không có giá trị sử dụng sẽ tịch thu, tiêu hủy.
[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.
[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo thực hiện quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38 và Điều 50 Bộ luật hình sự:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Mạnh Đ phạm tội:“tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/12/2018.
2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Mạnh Đ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, màu vàng, số IMEI: 869125023480630.
- Tịch thu, sung vào ngân sách Nhà nước 01(một) chiếc xe máy biển kiểm soát 90B2-742…, sơn màu xanh, số máy: 0585250, số khung: HY610337.
- Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) phong bì đã niêm phong mặt trước ghi: “Mẫu vật hoàn trả QT01”, số 198/PC09-MT có chữ ký, dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam và 01 (một) vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng.
Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý ngày 23/01/2019.
3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Danh mục án phí, lệ phí Tòa án theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Nguyễn Mạnh Đ nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 22/2019/HS-ST ngày 04/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 22/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 04/03/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về