Bản án 22/2017/HSST ngày 03/11/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH TÂN, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 22/2017/HSST NGÀY 03/11/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 03 tháng 11 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý 23/2017/HSST ngày 10 tháng 10 năm 2017 đối với  bị cáo: Họ và tên: Nguyễn Minh S (Tên gọi khác:  M), sinh năm 1966

Nơi cư trú:Tổ 05, ấp P, xã T, huyện TB, tỉnh Vĩnh Long; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: kinh; con ông Nguyễn Trung B (chết) và bà Nguyễn Thị P; có vợ Nguyễn Thanh T (đã ly hôn) và con có 02 người lớn nhất sinh năm 1983, nhỏ nhất sinh năm 1984;  tiền sự không; tiền án 01 lần, ngày 21/4/2003 bị Tòa án nhân dân huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long xử phạt 18 (mười tám) tháng tù giam về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, đến ngày10/3/2004 chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương, đến nay chưa xóa án tích vì phần trách nhiệm dân sự chưa chấp hành; ngày 29/8/2017 bị tạm giam cho đến nay; có mặt tại phiên tòa.

-Người bị hại:

Ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1958

Địa chỉ: Tổ 1, ấp A, xã T, huyện BT, tỉnh Vĩnh Long

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 7 giờ ngày 12/8/2017 Nguyễn Minh S sinh năm 1966, ngụ tổ 5, ấp P, xã T, huyện TB, tỉnh Vĩnh Long điều khiển xe mô tô biển số 64E1 – 118.48 từ nhà đến nhà bạn ở chợ xã TL, huyện BT, tỉnh Vĩnh Long. Khi S điều khiển xe chạy ngang nhà ông Nguyễn Văn L thuộc tổ 07, ấp H, xã T H, huyện B T, tỉnh Vĩnh Long thì S nhìn thấy 01 xe mô tô biển số 64H8-5304 của ông B,trên xe vẫn còn gắn chìa khóa xe, xung quanh thì không có người nên S nảy sinh ý định lấy trộm tài sản trong cốp xe. S liền đi lại xe mô tô biển số 64H8-5304 lấy chìa khóa xe và mở cốp xe và mở cốp xe ra, lấy 01 cái bóp da màu vàng – nâu của ông Nguyễn Văn B rồi bỏ vào túi áo khoác, bên trong cái bóp có số tiền Việt Nam 550.000 đồng, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe biển số 64H8-5304, 01 giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Văn B, 01giấy chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn B và 02 tờ vé số kiến thiết xổ ngày 12/8/2017 đài Long An. Sau khi lấy trộm được cái bóp thì S đóng cốp xe lại, gắn lại chìa khóa xe như cũ, rồi ra điều khiển xe mô tô biển số 64E1-118.48 tẩu thoát thì bị ông Nguyễn Văn B phát hiện. Ông Bảy kêu Huỳnh Văn C sinh năm 1962 ngụ tổ 6, ấp T, xã TT, huyện BT, tỉnh Vĩnh Long cùng rượt theo xe của S thì bắt giữ được S cùng tang vật gồm: 01 cái bóp da màu vàng – nâu bên trong có:

+Tiền Việt Nam: 550.000 đồng

+ 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe biển số 64H8-5304

+ 01 Giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Văn y

+01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn B

+ 02 Tờ vé số kiến thiết xổ ngày 12/8/2017 đài Long An số 020009Ngoài ra còn thu giữ 01 xe mô tô BS: 64E1-118.48 và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe BS: 64E1 – 118.48 mang tên Nguyễn Minh S.

Qua điều tra, Nguyễn Minh S có 01 tiền án là vào ngày 21/4/2003 bị Tòa án nhân dân TB, xử phạt 18 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt sản”, về trách nhiệm dân sự buộc bồi thường cho bà Lâm Thị T số tiền 28.380.000đồng. Đến ngày 10/3/2004 chấp hành xong hình phạt tù nhưng đến nay về phần trách nhiệm dân sự Nguyễn Minh S vẫn chưa bồi thường cho Lâm Thị T số tiền 28.380.000 đồng (bà T có làm đơn yêu cầu thi hành án, Chi cục Thi hành án dân sự huyện T B có thông báo cho S biết nhưng đến nay S vẫn chưa bồi thường).

Cho nên Nguyễn Minh S chưa được xóa án tích thì lại tiếp tục vi phạm. Xét thấy hành vi của Nguyễn Minh S đủ yếu tố cấu thành tội “trộm cắp tài sản” nên ngày 28/8/2017 Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện BT ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và ra lệnh bắt bị can để tạm giam cho đến nay. Qua điều tra, Nguyễn Minh S đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Về trách nhiệm dân sự: Công an xã TH đã trả lại 01 giấy chứng nhận đăng ký xe biển số 64H8- 5304, 01 giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Văn B 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn B và 02 tờ vé số kiến thiết xổ ngày 12/8/2017 đài Long An số 020009 cho ông Nguyễn Văn B. Cơ quan CSĐT Công an huyện Bình Tân đã trả lại 01 cái bóp màu vàng – nâu và số tiền 550.000 đồng cho ông Nguyễn Văn B. Sau khi nhận lại tài sản thì ông Nguyễn Văn B không yêu cầu gì khác.

Tại bản Cáo trạng số 23/CT-VKS ngày 10/10/2017, Viện kiểm sát nhân dân huyện B T đã truy tố bị cáo Nguyễn Minh S về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản của mình đúng như Cáo trạng đã nêu và đồng ý với tội danh mà bị cáo bị truy tố.

Người bị hại ông Nguyễn Văn B đã nhận lại tài sản nên không có yêu cầu bị cáo bồi thường, về trách nhiệm hình sự xin giảm nhẹ cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B T tham gia xét xử đã trình bày luận tội:

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các quy định tại khoản 1 Điều 138; Điều 33,  50, 51, điểm g, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự để xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản”, đề nghị xử phạt bị cáo từ 06 tháng đến 09 tháng tù. Tổng hợp hình phạt 01 năm tù tại bản án số 24/2017/HSST ngày 18/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện TB, tỉnh Vĩnh Long, buộc bị cáo Nguyễn Minh S phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là từ 01 năm 06 tháng đến 01 năm 09 tháng tù. Hình phạt bổ sung xét bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên đề nghị miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Xử lý vật chứng áp dụng Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự chấp nhậnCông an xã T H đã trả lại 01 giấy chứng nhận đăng ký xe biển số 64H8-5304, 01 giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Văn B, 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn B và 02 tờ vé số kiến thiết xổ ngày 12/8/2017 đài Long An số 020009 cho ông Nguyễn Văn B. Chấp nhận cơ quan CSĐT Công an huyện BT đã trả lại 01 cái bóp màu vàng – nâu và số tiền 550.000 đồng cho ông Nguyễn Văn B. Đối với 01 xe mô tô BS: 64E1-118.48 và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe BS: 64E1 – 118.48 mang tên Nguyễn Minh S, không liên quan đến việc phạm tội nên đề nghị trả lại cho bị cáo.Trách nhiệm dân sự  áp dụng Điều 584, 585, 586, 589 của Bộ luật dân sự: người bị hại ông Nguyễn Văn B đã nhận lại được tài sản, nên không yêu cầu bị cáo bồi thường, nên không đặt ra giải quyết. Án phí áp dụng Điều 99 của Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo thống nhất với ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, điều luật và mức hình phạt đối với hành vi phạm tội của bị cáo.

Người bị hại: Ông Nguyễn Văn B  thống nhất với ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi Hội đồng xét xử nghị án: Bị cáo xin nhận lại tài sản là chiếc xe và giấy tờ xe, xin giảm nhẹ hình phạt để sớm về lo cho mẹ già.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]Lời khai nhận của  bị cáo Nguyễn Minh S tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay là hoàn toàn phù hợp với lời khai của  bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời trình bày của người bị hại, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác do Cơ quan điều tra đã thu thập có trong hồ sơ vụ án.

Bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của người bị hại trong quản lý tài sản, trực tiếp thực hiện hành vi lén lút lấy trộm 01 cái bóp da màu vàng – nâu của ông Nguyễn Văn B bên trongcó: Tiền Việt Nam là 550.000 đồng, 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe biển số 64H8-5304, 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn B, 02 Tờ vé số kiến thiết xổ ngày 12/8/2017 đài Long An số 020009.

Tuy giá trị tài sản bị cáo lấy trộm là không lớn dưới 2.000.000 đồng, nhưng do bị cáo có 01 tiền án là vào ngày 21/4/2003 bị Tòa án nhân dân T B, xử phạt 18 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt sản”, về trách nhiệm dân sự buộc bồi thường cho bà Lâm Thị T số tiền 28.380.000đồng. Đến ngày 10/3/2004 chấp hành xong hình phạt tù nhưng đến nay về phần trách nhiệm dân sự Nguyễn Minh S vẫn chưa bồi thường cho Lâm Thị T số tiền 28.380.000 đồng (bà T có làm đơn yêu cầu thi hành án, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tam Bình có thông báo cho S biết nhưng đến nay Sang vẫn chưa bồi thường). Nguyễn Minh S chưa được xóa án tích thì lại tiếp tục vi phạm. Do đó, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Minh S phạm tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện B T đã truy tố bị cáo với tội danh và Điều luật như trong Bản cáo trạng số: 23/KSĐT, ngày 10 tháng 10 năm 2017 cũng như lời luận tội của vị Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa sơ thẩm là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan cho bị cáo.

Tính chất vụ án là ít nghiệm trọng. Quyền sở hữu tài sản của công dân luôn được pháp luật bảo vệ, cấm mọi hành vi xâm phạm. Bị cáo ý thức được việc lấy tài sản của người khác là hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhưng vì động cơ tham lam, tư lợi, lười lao động và muốn có tiền tiêu xài nhanh chóng nên đã cố ý phạm tội. Bị cáo đã có tiền án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã bị phạt tù nhưng bị cáo không biết tự rèn luyện, tu dưỡng bản thân trở thành một người tốt, hòa nhập vào cộng đồng với một con người lương thiện mà tiếp tục phạm tội. Điều này cho thấy bị cáo rất xem thường pháp luật, rất khó cải tạo.  Vì vậy, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục đối với bị cáo.

[2] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, tài sản mà bị cáo lấy trộm đã được thu hồi và trả cho người bị hại nên thuộc trường hợp phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại về tài sản, người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng cho  bị cáo.

Ngày 19/10/2017 Tòa án nhân dân huyện TB, tỉnh Vĩnh Long đã ra quyết định thi hành án phạt tù số 45/2017/QĐ-CA, do đó Hội đồng xét xử xét thấy cần phải tổng hợp hình phạt 01  năm tù tại bản án số 24/2017/HSST ngày 18/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện TB, tỉnh Vĩnh Long và buộc bị cáo Nguyễn Minh S phải chấp hành hình phạt chung theo quy định tại Điều 50, 51 Bộ luật hình sự.

[3]Về xử lý vật chứng: Ghi nhận Công an xã T H đã trả lại 01 giấy chứng nhận đăng ký xe biển số 64H8-5304, 01 giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Văn B, 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn B và 02 tờ vé số kiến thiết xổ ngày 12/8/2017 đài Long An số 020009 cho ông Nguyễn Văn B. Ghi nhận  Cơ quan CSĐT Công an huyện B T đã trả lại 01 cái bóp màu vàng – nâu và số tiền 550.000 đồng cho ông Nguyễn Văn B.

Đối với 01 xe mô tô BS: 64E1-118.48 và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe BS: 64E1 – 118.48 mang tên Nguyễn Minh S, không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

[4]Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại Nguyễn Văn B đã nhận lại tài sản, không yêu cầu trách nhiệm dân sự nên không đặt ra giải quyết.

[5] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát đã xem xét đến các chứng cứ được đưa ra thẩm tra tại phiên tòa, đã đánh giá đúng hành vi, tính chất và mức độ phạm tội của bị cáo. Về đề nghị mức hình phạt, đại diện Viện kiểm sát đã xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo là phù hợp, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về án phí hình sự sơ thẩm:

Bị cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh S (M) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 138; Điều 33; 50; 51; điểm g, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự

Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh S   06 (sáu)  tháng tù, tổng hợp hình phạt 01 (một) năm tù tại bản án số 24/2017/HSST ngày 18/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện T B, tỉnh Vĩnh Long. Buộc bị cáo Nguyễn Minh S phải chấp hành hình phạt chung của hại bản án là 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị tạm giam ngày 29/8/2017.

3.Về các vấn đề khác:

3.1 Xử lý vật chứng:  Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự;

Ghi nhận Công an xã T H đã trả lại 01 giấy chứng nhận đăng ký xe biển số 64H8-5304, 01 giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Văn B, 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn B và 02 tờ vé số kiến thiết xổ ngày 12/8/2017 đài Long An số 020009 cho ông Nguyễn Văn B. Ghi nhận Cơ quan CSĐT Công an huyện BT đã trả lại 01 cái bóp màu vàng – nâu và số tiền 550.000 đồng cho ông Nguyễn Văn Bảy.

Trả lại cho bị cáo 01 xe mô tô BS: 64E1-118.48 và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe BS: 64E1 – 118.48 mang tên Nguyễn Minh Sang.

3.2.Về trách nhiệm dân sự: áp dụng Điều 584, 585, 586, 589 của Bộ luật dân sự.

Ghi nhận ý kiến của người bị hại Nguyễn Văn B không yêu cầu trách nhiệm dân sự nên không đặt ra giải quyết.

3.3. Án phí: 

Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016  quy  định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Nguyễn Minh S  nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai có mặt bị cáo, người bị hại. Bị cáo, người bị hại được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người vắng mặt được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

308
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2017/HSST ngày 03/11/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:22/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Tân - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về