TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 215/2019/HS-ST NGÀY 29/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 29 tháng 11 năm 2019 tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm đã được thụ lý số: 215/2019/TLST-HS ngày 18 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 239/2019/QĐXXST-HS, ngày 19 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:
Trần Anh D (Béo), sinh năm: 1985, tại: Thành phố Hồ Chí Minh; Hộ khẩu thường trú: đường L, Phường Z, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: nhân viên giao hàng; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc:Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn C và bà Nguyễn Thị L; Có vợ Trương Thị Thúy A1, sinh năm 1986 và có 01 con chung sinh năm 2016; tiền án: Không; tiền sự: không; tạm giam ngày: 14/8/2019; (Có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Lúc 01 giờ 20 phút ngày 14/8/2019, Đội CSĐTTP về Ma túy - Công an quận Gò Vấp kết hợp với Công an phường 17, quận Gò Vấp kiểm tra phòng quán karaoke tại phường 17, quận Gò Vấp, phát hiện Trần Anh D đang cất giữ trái phép 03 gói nylon có chứa tinh thể không màu (D khai là ma túy tổng hợp), cùng với các đối tượng Nguyễn Quốc Th, Trương Minh T, Nguyễn Thị Kim C, Trần Đức D nên tiến hành thu giữ vật chứng, bắt giữ D lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.
Vật chứng thu giữ gồm:
- 01 gói nylon chất bột màu trắng được niêm phong, bên ngoài có chữ ký ghi tên Trần Anh D và hình dấu Công an phường 17, quận Gò Vấp (m1); Qua giám định nhanh m1 có khối lượng 0,6168 gam, là ma túy ở thể rắn, loại Ketamine.
- 01 gói nylon chất tinh thể màu trắng được niêm phong, bên ngoài có chữ ký ghi tên Trần Anh D và hình dấu Công an phường 17, quận Gò Vấp (m2); Qua giám định nhanh m2 có khối lượng 1,6469 gam, là ma túy ở thế rắn, loại Ketamine.
- 01 gói nylon chất tinh thể màu trắng được niêm phong, bên ngoài có chữ ký ghi tên Trần Anh D và hình dấu Công an phường 17, quận Gò vấp (m3); Qua giám định nhanh m3 có khối lượng 0,5245 gam, là ma túy ở thể rắn, loại Ketamine.
- 01 thẻ nhựa, 01 tờ giấy bạc mệnh giá 5.000 đồng, 01 tờ giấy bạc mệnh giá 20.000 đồng.
Tại Cơ quan điều tra, Trần Anh D và các đối tượng khai nhận: vào khoảng 22 giờ 30 ngày 13/8/2019, sau khi dự tiệc tại nhà Trần Thị Như P thì cả nhóm gồm P, D, Nguyễn Quốc Th, Trần Minh T, Nguyễn Thị Kim C, Nguyễn Ngọc A, Phạm Quốc V, Trương Thị Thùy A1, Đỗ Thị Ngọc H rủ nhau cùng đến quán Karaoke để hát. Th, P, A và V đến quán trước và thuê phòng, lúc này có một người thanh niên tên thường gọi là Tư Đen (không rõ lai lịch) vào phòng cầm theo 01 gói nylon chứa ma túy tổng hợp (hàng khay) đổ lên dĩa sứ đặt lên bàn rồi người này đã đi về. Sau đó, Th gọi điện thoại cho T kêu T mua ma túy đến để sử dụng. Đến khoảng 23 giờ 00 cùng ngày thì Trần Anh D cùng vợ Trương Thị Thùy A2 đến quán karaoke. Lúc này, có một nam thanh niên (không rõ lai lịch) đi vào phòng để 01 gói nylon chứa ma túy tổng hợp (hàng khay) lên bàn và nói ma túy của T mua. Một lúc sau người thanh niên đó quay lại phòng tiếp tục để 04 viên thuốc lắc lên bàn và nói ma túy này là của T mua rồi đi ra ngoài. D dùng thẻ vét toàn bộ ma túy đang có trong dĩa sứ (do Tư Đen mang đến) vào tờ tiền 5000 đồng rồi đổ vào 01 bịch nylon để lên bàn, D cầm gói nylon chứa ma túy do người thanh niên mới mang vào phòng, lấy một ít cho vào dĩa sứ rồi dùng thẻ cà nhuyễn để sử dụng, số ma túy còn lại trong gói nylon thì D cũng để lên bàn cùng với gói ma túy đổ từ dĩa sứ trước đó. Sau đó, D cất giấu 02 gói ma túy này bên dưới gầm bàn (do D sợ ma túy bị ướt không sử dụng được) rồi cùng với các đối tượng trong phòng sử dụng ma túy trong dĩa sứ và thuốc lắc (D và vợ là Trương Thị Thùy A1 cùng sử dụng 01 viên thuốc lắc). Đến khoảng 00 giờ ngày 14/8/2019 thì C và H2 đến và tiếp theo là T và H là người vào phòng sau cùng. Cả nhóm cùng hát, sử dụng ma túy trên dĩa và đã sử dụng hết số thuốc lắc, riêng T, P, C không sử dụng ma túy. Đến khoảng 01 giờ 20 cùng ngày, công an kiểm tra phát hiện số ma túy tổng hợp còn lại trên dĩa sứ, phát hiện 02 gói nylon chứa ma túy tổng hợp do Trần Anh D cất giấu dưới gầm bàn trước đó nên lập biên bản thu giữ, niêm phong, bắt giữ D đưa tất cả những người có mặt trong phòng về trụ sở lập biên bản phạm tội quả tang.
Nguyễn Quốc Th khai: Th có gọi điện thoại cho T kêu T mua ma túy đem đến quán karaoke để sử dụng thì T đồng ý. Đến khoảng 23 giờ ngày 13.8.2019, một thanh niên vào phòng để lên bàn 01 gói nylon và nói ma túy của T kêu mang đến, sau đó tiếp tục quay vào để một gói nylon bên trong có 04 viên thuốc lắc lên bàn gần chỗ D ngồi rồi đi ra ngoài. Tất cả cùng sử dụng thuốc lắc và ma túy cho đến khi bị công an kiểm tra.
Trương Minh T khai nhận: T có gọi điện thoại cho một thanh niên tên T2 (chưa rõ lai lịch) để mua ma túy đến phòng sử dụng nhưng T2 cho số điện thoại của người bán ma túy để T liên lạc. Sau đó, T liên lạc với người bán ma túy thì người này nói là khi nào có ma túy thì gọi điện thoại trả lời cho T biết. Đến khi T bị công an kiểm tra thì vẫn chưa nhận được điện thoại của người bán ma túy nên T vẫn chưa mua được ma túy do đó T không rõ nguồn gốc số ma túy mà công an đã thu giữ là của ai mang đến.
Do T không thừa nhận số ma túy công an thu giữ trong phòng là của T, đồng thời chỉ có lời khai của Th chỉ nghe người mang ma túy vào phòng nói là ma túy của T mua, ngoài ra lời khai của những người sử dụng ma túy trong phòng đều xác định không biết nguồn gốc ma túy từ đâu, nên không có căn cứ chứng minh số ma túy người thanh niên mang vào phòng là của T. Do đó, không có căn cứ để xử lý hình sự đối với T.
Đối với các đối tượng Nguyễn Quốc Th, Trần Thị Như P, Nguyễn Thị Kim C, Nguyễn Ngọc A, Phạm Quốc V, Trương Thị Thúy A1 và Võ Minh H2 cùng khai nhận không biết D đã cất giấu số ma túy thu giữ xuống gầm bàn, quá trình điều tra không chứng minh được các đối tượng có liên quan đến việc tàng trữ ma túy nên cơ quan điều tra chưa có căn cứ để xử lý hình sự.
Đối với đối tượng tên Tư đen qua lời khai của Hoàng Bảo Tr (quản lý karaoke) khai nhận tại điểm karaoke không có ai tên Tư đen và có nhân dạng như lời khai của những người sử dụng ma túy, cơ quan điều tra đang tiếp tục điều tra làm rõ khi nào có kết quả sẽ xử lý sau.
Tại bản cáo trạng số 205/CTr-VKS, ngày 14/11/2019 Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp đã truy tố Trần Anh D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm g khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên toà hôm nay, Đại diện viện kiểm sát sau khi luận tội và đưa ra quan điểm xét xử đã đề nghị: Áp dụng điểm g khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017;
- Xử phạt bị cáo Trần Anh D từ 01 năm đến 01 năm 6 tháng tù.
- Miễn phạt bổ sung cho bị cáo.
Áp dụng Điều 46; Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017 và khoản 1, điểm a,c khoản 2, khỏan 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
- Tịch thu và tiêu hủy lượng ma túy thu giữ.
- Tịch thu tiêu hủy 01 đĩa sứ hình tròn màu trắng, 01 thẻ nhựa.
- Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 tờ tiền mệnh giá 5.000 đồng, 01 ống hút được cuộn tròn bằng tờ tiềnn mệnh giá 20.000 đồng Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận và trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên toà hôm nay, sau khi Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp công bố bản cáo trạng thì Trần Anh D đã thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu.
Lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với bản kết luận điều tra của Công an quận Gò Vấp, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp, biên bản phạm pháp quả tang và tang vật thu giữ, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được trong hồ sơ vụ án. Căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát trong quá trình Điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.
Đối chiếu với các Điều luật tương ứng do Bộ luật Hình sự quy định. Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng hành vi của Trần Anh D đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt trừng trị được quy định tại Điều 249 của Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.
[2] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bởi lẽ, đã xâm phạm đến sự quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, đã xâm phạm và làm ảnh hưởng đến chính sách quản lý kinh tế, an ninh quốc gia, gây mất trật tự trị an xã hội.
Mặc dù bị cáo nhận thức được việc tàng trữ, sử dụng...... trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, bị pháp luật nghiêm cấm và nếu vi phạm sẽ bị trừng trị nghiêm khắc, nhưng bị cáo vẫn ngang nhiên tàng trữ trái phép chất ma tuý để sử dụng, bất chấp những quy định của pháp luật, bất chấp mọi hậu quả xảy ra kể cả việc trừng trị của pháp luật. Do đó, cần thiết phải có mức hình phạt thật nghiêm khắc đối với bị cáo và cần thiết phải có một khoảng thời gian dài cách ly bị cáo ra khỏi xã hội nhằm tạo điều kiện cho bị cáo từ bỏ con đường nghiện ngập học tập phấn đấu trở thành người tốt hơn sau này biết tôn trọng pháp luật đồng thời cũng nhằm răn đe, phòng ngừa tội phạm chung.
Tuy nhiên khi lượng hình cần xem xét các tình tiết, tại Cơ quan điều tra cũng như qua diễn biến phiên toà hôm nay bị cáo đã thật thà khai báo thành khẩn nhận tội và tỏ ra ăn năn hối cải, gia đình bị cáo thuộc thành phần lao động nghèo để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo mà lẽ ra bị cáo phải chịu. Xét gia đình bị cáo có cha và mẹ tham gia cách mạng được chủ tịch nước Trần Đức Lương và Trương Tấn Sang tặng thưởng Huân chương chiến công hạng 3, Huy chương quân kỳ quyết thắng và được tặng huy hiệu 30 năm tuổi Đảng nên cần thiết khi lượng hình xem xét cho bị cáo.
[3] Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự Hội đồng xét tính chất vụ án và hoàn cảnh của bị cáo nên quyết định miễn phạt bị cáo.
[4] Về xử lý vật chứng:
Đối với 01 gói nylon chứa chất bột màu trắng được niêm phong, bên ngoài có chữ ký ghi tên Trần Anh D và hình dấu Công an phường 17, quận Gò Vấp ( m 1 ); Qua giám định nhanh m1 có khối lượng 0,6168 gam, là ma túy ở thể rắn, loại Ketamine. 01 gói nylon chứa chất tinh thể màu trắng được niêm phong, bên ngoài có chữ ký ghi tên Trần Anh D và hình dấu Công an phường 17, quận Gò Vấp (m2); Qua giám định nhanh m2 có khối lượng 1,6469 gam, là ma túy ở thế rắn, loại Ketamine và 01 gói nylon chứa chất tinh thể màu trắng được niêm phong, bên ngoài có chữ ký ghi tên Trần Anh D và hình dấu Công an phường 17, quận Gò vấp (m3); Qua giám định nhanh m3 có khối lượng 0,5245 gam, là ma túy ở thể rắn, loại Ketamine là các chất nhà nước cấm lưu hành và sử dụng Hội đồng xét xử quyết định tịch thu và tiêu hủy.
- Đối với 01 đĩa sứ hình tròn màu trắng, 01 thẻ nhựa là dụng cụ bị cáo dùng để sử dụng ma túy không còn giá trị sử dụng, Hội đồng xét xử quyết định tịch thu và tiêu hủy.
- Đối với 01 tờ giấy bạc mệnh giá 5.000 đồng, 01 tờ giấy bạc mệnh giá 20.000 đồng bị cáo dùng để sử dụng ma túy, Hội đồng xét xử quyết định tịch thu sung quỹ nhà nước.
[5] Đối với đối tượng tên Tư đen đem bán ma túy vào phòng do chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên không có căn cứ để xử lý, khi nào xác định được xử lý sau.
Đối với các đối tượng Nguyễn Quốc Th, Trần Thị Như P, Nguyễn Thị Kim C, Nguyễn Ngọc A, Phạm Quốc V, Trương Thị Thúy A1 và Võ Minh H2, quá trình điều tra không chứng minh được các đối tượng có liên quan đến việc tàng trữ ma túy nên cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý hình sự.
Đối với số thuê bao 0983989808 Cơ quan điều tra đã gửi công văn xác minh nhưng đến nay chưa có kết quả, khi nào xác định được sẽ xử lý sau.
Đối với Nguyễn Quốc Th và Trương Minh T đề nghị Cơ quan cảnh sát điều tra công an quận Gò Vấp tiếp tục củng cố tài liệu, chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội sẽ xử lý sau.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Trần Anh D (Béo) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Căn cứ điểm g khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017;
Xử phạt bị cáo Trần Anh D (Béo) 01 (một) năm tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày 14/8/2019.
Căn cứ Điều 46; Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017 và khoản 1, điểm a,c khoản 2, khỏan 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
- Tịch thu và tiêu hủy 01 gói nylon chứa chất bột màu trắng được niêm phong, bên ngoài có chữ ký ghi tên Trần Anh D và hình dấu Công an phường 17, quận Gò Vấp, 01 gói nylon chứa chất tinh thể màu trắng được niêm phong, bên ngoài có chữ ký ghi tên Trần Anh D và hình dấu Công an phường 17, quận Gò Vấp và 01 gói nylon chứa chất tinh thể màu trắng được niêm phong, bên ngoài có chữ ký ghi tên Trần Anh D và hình dấu Công an phường 17, quận Gò vấp.
- Tịch thu và tiêu hủy 01 đĩa sứ hình tròn màu trắng, 01 thẻ nhựa.
- Tịch thu sung quỹ nhà nước chiếc xe biển số giả 59V2-168.55, số khung: RLHH009076Y448162, số máy: HC09E-6448230.
- Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 tờ tiền mệnh giá 5.000 đồng, 01 ống hút được cuộn tròn bằng tờ tiềnn mệnh giá 20.000 đồng.
(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 190/PNK ngày 30/9/2019 của Công an quận Gò Vấp).
Áp dụng khỏan 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và Lệ phí, Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án;
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án.
Căn cứ Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014).
Bản án 215/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 215/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về