TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH - TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 206/2019/HS-ST NGÀY 26/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 26 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 193/2019/TLST- HS ngày 21 tháng 6 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 193/2019/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 7 năm 2019, đối với bị cáo:
Họ tên: Lâm Văn H - sinh năm 1991 tại: Tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Đội 10, thôn A, xã T, huyện T, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Không nghề nghiệp; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lâm Văn T và bà Tống Thị L; có vợ Nguyễn Thị Ngọc A và 01 con; tiền án: Ngày 31-8-2018 bị Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng xử phúc thẩm phạt 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 60 tháng về tội “Vận chuyển hàng cấm”; tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 22-3-2019, sau đó chuyển tạm giam từ ngày 31-3-2019 cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Nam Định; bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Người làm chứng:
Anh Bùi Thái H1, anh Nguyễn Văn T1 (vắng mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 07 giờ 00 phút ngày 22-3-2019, tổ công tác Công an phường Văn Miếu, thành phố Nam Định làm nhiệm vụ tại khu vực bờ đê sông Đ, thôn L, xã P, thành phố Nam Định phát hiện Lâm Văn H đi bộ một mình có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành kiểm tra. Quá trình kiểm tra, H đã thả từ tay trái xuống đất 01 gói nhỏ giấy bạc màu trắng, bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng (H khai là gói Heroine của H). Tổ công tác đã niêm phong vật chứng, đưa Hoàng cùng người làm chứng về trụ sở, lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định đã trưng cầu giám định vật chứng thu giữ. Tại bản kết luận giám định số 316/GĐKTHS ngày 27-3-2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu chất bột dạng cục màu trắng thu giữ của Lâm Văn H là chất ma túy, loại chất ma túy là Heroine, có khối lượng 0,180 gam (không phẩy một tám không gam).
Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, Lâm Văn H khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng, đồng thời khai nhận về nguồn gốc 01 gói ma túy như sau: Khoảng 06 giờ 30 phút ngày 22-3-2019, Lâm Văn H thuê xe ôm đi từ nhà đến khu vực bờ đê sông Đ, thôn L, xã P, thành phố Đ. Đến nơi, H trả tiền xe ôm rồi đi bộ vào một nhà ở đê sông Đ (không nhớ số nhà) mua qua khe cửa (không nhìn thấy người bán) 01 gói Heroine với giá 100.000 đồng về để sử dụng. H cầm gói ma túy vừa mua được trong tay trái rồi đi bộ ra bắt xe ôm về để tìm nơi sử dụng. Khi H đi bộ được khoảng 30m thì bị phát hiện, bắt giữ như đã nêu trên.
Đối với đối tượng đã bán gói ma túy cho Lâm Văn H, hiện tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ kết luận nên đã tách ra tiếp tục điều tra xử lý sau.
Bản cáo trạng số 195/CT-VKSTPNĐ ngày 20-6-2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định truy tố bị cáo Lâm Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo Lâm Văn H tại phiên tòa thể hiện hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do đó, Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lâm Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, khoản 5 Điều 65, khoản 2 Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015:
xử phạt bị cáo Lâm Văn H từ 24 tháng tù đến 30 tháng tù, miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; tổng hợp hình phạt đối với bị cáo: buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án từ 04 năm 06 tháng tù đến 05 năm tù; Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Xử lý vật chứng đã thu giữ theo quy định của pháp luật.
Bị cáo Lâm Văn H nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Lâm Văn H không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.
[2] Về tội danh:
Lời khai nhận tội của bị cáo Lâm Văn H phù hợp với các tài liệu, chứng cứ của vụ án nên có đủ cơ sở xác định: Khoảng 07 giờ 00 phút 22-3-2019, Lâm Văn H đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,180 gam Heroine thì bị phát hiện bắt quả tang tại khu vực bờ đê sông Đ, thôn L, xã P, thành phố Đ. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và biết rõ hành vi tàng trữ ma túy của mình bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện, khối lượng Heroine bị cáo tàng trữ là 0,180 gam nên bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.
[3] Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:
Về các tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo Lâm Văn H đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Về các tình tiết tăng nặng: Bị cáo có 01 tiền án về tội “Vận chuyển hàng cấm” chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.
[4] Về hình phạt:
Xét bị cáo phạm là đối tượng có nhân thân xấu đã bị đưa ra xét xử nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học mà lại tiếp tục phạm tội cho thấy bị cáo là đối tượng khó giáo dục, cải tạo nên cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn với mức hình phạt nghiêm khắc. Tuy nhiên, bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 nên Hội đồng xét xử chỉ xử phạt bị cáo ở mức giữa của khung hình phạt mà bị cáo bị truy tố nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.
[5] Về tổng hợp hình phạt:
Ngày 31-8-2018, Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng xử phúc thẩm phạt bị cáo Lâm Văn H 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 60 tháng về tội “Vận chuyển hàng cấm”. Ngày 22-3-2019 bị cáo lại tiếp tục phạm tội mới nên căn cứ khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử sẽ buộc bị cáo Lâm Văn H phải chấp hành hình phạt 30 tháng tù của bản án số 31/2018/HS-PT ngày 31-8-2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng.
Căn cứ khoản 2 Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015, tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo Lâm Văn H phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án.
[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo Lâm Văn H tàng trữ ma túy mục đích để sử dụng nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[7] Về xử lý vật chứng: Số ma túy đã thu giữ là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 để tịch thu tiêu hủy.
[8] Về án phí: Bị cáo Lâm Văn H bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Lâm Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, khoản 5 Điều 65, khoản 2 Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Lâm Văn H 02 năm 03 tháng tù (hai năm ba tháng tù). Tổng hợp với hình phạt của bản án số 31/2018/HS-PT ngày 31-8-2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng đã xử phạt bị cáo 30 tháng tù về tội “Vận chuyển hàng cấm”. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 04 năm 09 tháng tù (bốn năm chín tháng tù). Thời hạn tù tính từ ngày 22-3-2019.
2. Xử lý vật chứng:
- Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ.
(Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhân vật chứng ngày 14-6- 2019).
4. Án phí:
- Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016.
Bị cáo Lâm Văn H phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5. Quyền kháng cáo:
Bị cáo Lâm Văn H được quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 206/2019/HS-ST ngày 26/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 206/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/07/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về