TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH - TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 191/2019/HS-ST NGÀY 03/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 03 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 179/2019/TLST- HS ngày 29 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 179/2019/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 6 năm 2019, đối với bị cáo:
Họ tên: Nguyễn Văn A - sinh năm 1994 tại: Tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Xóm T, xã L, huyện B, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Không nghề nghiệp; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn G và bà Hồ Thị N; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 28-3-2019, sau đó chuyển tạm giam từ ngày 06-4-2019 cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Nam Định; bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Người làm chứng:
Anh Phạm Xuân Q, anh Đoàn Văn Đ (vắng mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
1 Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 28-3-2019, tổ công tác Công an phường Trần Hưng Đạo, thành phố Nam Định làm nhiệm vụ tại khu vực trước cổng nghĩa trang công giáo đường Q, phường N, thành phố Đ phát hiện Nguyễn Văn A điều khiển xe máy biển kiểm soát: 18S2-2804 một mình có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Quá trình kiểm tra, A thả từ tay trái xuống đường 01 gói giấy bạc, bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng (A khai là gói Heroine của A). Tổ công tác đã niêm phong vật chứng, đưa A cùng người làm chứng về trụ sở, lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, tổ công tác còn tạm giữ của A 01 xe máy biển kiểm soát: 18S2-2804.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định đã trưng cầu giám định vật chứng thu giữ. Tại bản kết luận giám định số 330/GĐKTHS ngày 02-4-2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu chất bột dạng cục màu trắng thu giữ của Nguyễn Văn A là chất ma túy, loại chất ma túy là Heroine, có khối lượng 0,147 gam (không phẩy một bốn bảy gam).
Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, Nguyễn Văn A khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng, đồng thời khai nhận về nguồn gốc 01 gói ma túy như sau: Khoảng 12 giờ ngày 28-3-2019, Nguyễn Văn A điều khiển xe máy biển kiểm soát: 18S2-2804 một mình từ nhà đến khu vực gầm cầu Q, thành phố Đ gặp và mua của một người phụ nữ (không rõ lai lịch, địa chỉ) đang đứng ở gầm cầu 01 gói Heroine với giá 50.000 đồng về để sử dụng. A cầm số ma túy vừa mua được trong tay trái rồi điều khiển xe về để sử dụng. Khi A đi đến khu vực trước cổng nghĩa trang công giáo đường Q, phường N, thành phố Đ thì bị phát hiện bắt giữ như đã nêu trên.
Đối với chiếc xe máy biển kiểm soát: 18S2-2804, Nguyễn Văn A khai mượn của bố đẻ là ông Nguyễn Văn G - sinh năm 1971, trú tại: Xóm T, xã L, huyện B, tỉnh Nam Định. Ông Nguyễn Văn G không biết việc A mượn xe đi mua ma túy nên cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe máy trên cho chủ sở hữu là ông Nguyễn Văn G.
Đối với đối tượng đã bán gói ma túy cho Nguyễn Văn A, hiện tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ kết luận nên đã tách ra tiếp tục điều tra xử lý sau.
Bản cáo trạng số 181/CT-VKSTPNĐ ngày 29-5-2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định truy tố bị cáo Nguyễn Văn A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo Nguyễn Văn A tại phiên tòa thể hiện hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do đó, Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015: xử phạt bị cáo Nguyễn Văn A từ 18 tháng tù đến 24 tháng tù, miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Xử lý vật chứng đã thu giữ theo quy định của pháp luật.
Bị cáo Nguyễn Văn A nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn A không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.
[2] Về tội danh:
Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Văn A phù hợp với các tài liệu, chứng cứ của vụ án nên có đủ cơ sở xác định: Khoảng 12 giờ 30 phút 28-3- 2019, Nguyễn Văn A đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,147 gam Heroine thì bị phát hiện bắt quả tang tại khu vực trước cổng nghĩa trang công giáo đường Q, phường N, thành phố Đ. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và biết rõ hành vi tàng trữ ma túy của mình bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện, khối lượng Heroine bị cáo tàng trữ là 0,147 gam nên bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.
[3] Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:
Về các tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Văn A đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[4] Về hình phạt:
Xét bị cáo phạm tội lần đầu, khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ không lớn; bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 nên Hội đồng xét xử chỉ xử phạt bị cáo ở mức thấp của khung hình phạt mà bị cáo bị truy tố nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.
[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo Nguyễn Văn A tàng trữ ma túy mục đích để sử dụng nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về xử lý vật chứng: Số ma túy đã thu giữ là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 để tịch thu tiêu hủy.
[7] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn A bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn A 01 năm 09 tháng tù (một năm chín tháng tù). Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 28-3-2019.
2. Xử lý vật chứng:
- Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ.
(Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhân vật chứng ngày 20-5- 2019).
3. Án phí:
- Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016.
Bị cáo Nguyễn Văn A phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo:
Bị cáo Nguyễn Văn A được quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 191/2019/HS-ST ngày 03/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 191/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 03/07/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về