Bản án 189/2019/HS-ST ngày 17/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 189/2019/HS-ST NGÀY 17/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 17 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án Nhân dân quận Thủ Đức, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 168/2019/TLST-HS ngày 17 tháng 6 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 195/2019/TLST-HS ngày 02/7/2019 đối với bị cáo:

Trần Phi L, sinh năm: 1988, tại tỉnh Sóc Trăng; Thường trú: 81/20 P Đ C, Phường M, quận B, Thành phố H; nơi cư trú: 09 H B, Khu phố B, phường H, quận T, Thành phố H; Nghề nghiệp: Nhân viên giao hàng; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trần Công P và bà: Trần Ngọc U (chết); Bị cáo có vợ và 02 con, con lớn sinh năm 2014, con nhỏ sinh năm 2018; Tiền án: Ngày 27/01/2016 bị Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Tiền sự: không; Bị bắt tạm giam từ ngày 04/11/2018 (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ 00 phút ngày 04/11/2018, Công an phường Hiệp Bình Chánh, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh kiểm tra phòng trọ số E1, nhà trọ số 09 đường H, khu phố B, phường H, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh phát hiện bắt quả tang Trần Phi L có hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Vật chứng thu giữ gồm: 10 (mười) gói nylon hàn kín bên trong có chứa tinh thể không màu; 01 (một) gói nylon bên trong có 04 viên nén màu đỏ; 01 (một) gói nylon bên trong có 10 viên nén màu xanh; 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 4 màu trắng; 01 (một) bình thủy tinh dùng để sử dụng ma túy tổng hợp.

Bản kết luận giám định số 1795/KLGĐ-H ngày 12/11/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

- Gói 1: Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m1.1 cần giám định (đã nêu ở mục II.1) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 73,4044g, loại Methamphetamine; Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m1.2 cần giám định (đã nêu ở mục II.1) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,0789g, loại Ketamine;

- Gói 2: 04 viên nén màu đỏ được ký hiệu mẫu m2 cần giám định (đã nêu ở mục II.1) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,4035g, loại Methaphetamine.

- Gói 3: 10 viên nén màu xanh được ký hiệu mẫu m3 cần giám định (đã nêu mục II.1) là ma túy thể rắn, có khối lượng 3,9640g, loại Tramadol.

Tại Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an quận Thủ Đức, Trần Phi L khai nhận là người nghiện ma túy. khoảng 19 giờ ngày 03/11/2018, L đón xe ôm đến bến xe An Sương gặp một người thanh niên không rõ lai lịch hỏi mua 2.000.000 đồng ma tuý tổng hợp mang về phòng trọ tại số 09 đường Hiệp Bình, khu phố 7, phường Hiệp Bình Chánh, quận Thủ Đức kiểm tra 10 gói nylon hàn kín bên trong có chứa tinh thể không màu, 01 gói nylon bên trong có 04 viên nén màu đỏ, 01 gói nylon bên trong có 10 viên nén màu xanh rồi cất vào trong hộc tủ tại phòng trọ để dành sử dụng. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày bị công an phường Hiệp Bình Chánh kiểm tra hành chính thì phát hiện L có cất giữ ma túy nên tiến hành lập biên bản bắt phạm tội quả tang.

Vật chứng:

- 03 (ba) gói niêm phong ghi số 1795 có chữ ký của Giám định viên Trần Đình Hải, bên trong là ma túy còn lại sau giám định; 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 4 màu trắng

- 01 (một) bình thủy tinh dùng để sử dụng ma túy tổng hợp.

Tại bản cáo trạng số 179CT-VKSTĐ ngày 13/6/2019, Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Trần Phi L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo qui định tại các điểm b, h khoản 3 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Trần Phi L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức đã truy tố; bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức phát biểu ý kiến giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Trần Phi L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” đồng thời đề nghị: Áp dụng điểm b, h khoản 3 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Trần Phi L từ 11 năm tù đến 12 năm tù.

Bị cáo không tranh luận về hành vi phạm tội, lời sau cùng bị cáo xin hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, các hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Căn cứ các tài liệu chứng cứ thu thập được và kết quả tranh luận tại phiên tòa có đủ căn cứ kết luận hành vi phạm tội cụ thể của bị cáo như sau:

Trần Phi L là người nghiện ma túy, khoảng 19 giờ ngày 03/11/2018, L đón xe ôm đến bến xe An Sương gặp một người thanh niên không rõ lai lịch mua 2.000.000 đồng ma túy tổng hợp mang về phòng trọ tại số 09 đường H, khu phố B, phường H, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh thì bị bắt quả tang cùng vật chứng. Bị cáo khai số ma túy trên tàng trữ để sử dụng.

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa là khách quan, phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ căn cứ kết luận bị cáo Trần Phi L đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Số ma túy bị cáo tàng trữ trái phép gồm, Methamphetamine có khối lượng 73,4044g; Ketamine khối lượng 0,0789g; 04 viên nén có khối lượng 0,4035g, loạiMethaphetamine; 10 viên nén có khối lượng 3,9640g, loại Tramadol nên thuộc trường hợp định khung tăng nặng quy định tại điểm h khoản 3 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức truy tố bị cáo phạm tội thuộc hai tình tiết định khung tăng nặng qui định tại các điểm b, h khoản 3 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi bổ sung năm 2017 là bất lợi cho bị cáo vì bị cáo đã bị truy tố ở tình tiết có từ hai chất ma túy trở lên qui định tại điểm h.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, nên cần xử phạt bị cáo một hình phạt nghiêm mới đủ tác dụng giáo dục và phòng ngừa.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Bị cáo có nhân thân xấu đã bị xét xử về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội mới do lỗi cố ý, là tình tiết tăng nặng qui đinh tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Khi lượng hình, Hội đồng xét xử xem xét: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, giảm cho bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

Đối với người thanh niên (không rõ lai lịch) là người bán ma túy cho L đến nay chưa xác định lai lịch. Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an quận Thủ Đức tiếp tục xác minh xử lý sau.

[4] Về xử lý vật chứng: 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 4 màu trắng liên quan đến hành vi phạm tội nên tịch thu sung quỹ Nhà nước; 01 (một) bình thủy tinh dùng để sử dụng ma túy tổng hợp và số ma túy còn lại sau giám định không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1-Tuyên bố bị cáo Trần Phi L phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2- Áp dụng điểm h khoản 3 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Trần Phi L: 12 (mười hai) năm tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 04/11/2018.

3- Áp dụng khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 4 màu trắng. Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bình thủy tinh dùng để sử dụng ma túy tổng hợp; 03 gói niêm phong ghi vụ 1795/KLGĐ-H có chữ ký GĐV Trần Đình Hải bên trong là ma túy còn lại sau giám định.

(Theo phiếu nhập kho vật chứng số NKT2019/200 ngày 16/7/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh)

4- Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo có quyền kháng cáo bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 189/2019/HS-ST ngày 17/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:189/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về