Bản án 183/2017/HSST ngày 23/11/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 183/2017/HSST NGÀY 23/11/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 11 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 190/2017/HSST ngày 02 tháng 11 năm 2017 đối với bị cáo:

Hoàng Trường A, sinh năm 1989 tại tỉnh Lạng Sơn;

Đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 27, đường T, phường C, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn;

Trú tại: Số 45, đường T, phường T, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; Nghề nghiệp: Không. Trình độ văn hóa: 10/12;

Con ông Hoàng Văn C và bà Chu Thị M;Vợ: Hà Thị D (đã ly hôn);

Con: Có 01 con sinh năm 2009; Tiền sự: Không;

Tiền án: Có 01 tiền án. Ngày 18/5/2016 bị Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 06 tháng tù về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản". Chấp hành xong hình phạt tù ngày 08/9/2016;

Bị bắt tạm giam ngày 22/9/2017. Hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố L. Có mặt.

Người bị hại: Ông Nguyễn Xuân N, sinh năm 1967;

Đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn D, xã H, huyện Y, tỉnh Bắc Giang;

Chố ở: Số 166, đường L, phường T, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

NHẬN THẤY

Bị cáo Hoàng Trường A bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 02 giờ ngày 10/9/2017, Hoàng Trường A đi bộ qua nhà số 175, đường L, phường T, thành phố L thấy nhà đang xây dựng chưa hoàn thiện, không có người trông giữ nên Hoàng Trường A đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Hoàng Trường A đi vào trong nhà, xem xét tại tầng 01 không có gì. Hoàng Trường A lên tầng 02 của ngôi nhà phát hiện thấy có 01 chiếc kìm cộng lực để trên sàn nhà nên đã lấy trộm chiếc kìm cộng lực. Hoàng Trường A đem chiếc kìm lấy trộm được về nhà mình tại số 45, đường T, phường T, thành phố L cất giấu để sử dụng. Chủ sở hữu chiếc kìm là ông Nguyễn Xuân N sinh năm 1967, trú tại thôn D, xã H, huyện Y, tỉnh Bắc Giang (ông N là chủ thầu đang xây dựng nhà 175).

Tại biên bản định giá tài sản tố tụng hình sự số 130/ĐGTSTT ngày 22/9/2017 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự thành phố L kết luận: Kìm cộng lực Hoàng Trường A lấy trộm của ông Nguyễn Xuân N trị giá 228.000 đồng.

Căn cứ đơn trình báo của chủ sở hữu tài sản, qua thu thập tài liệu chứng cứ, ngày 21/9/2017 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố L đã khám xét khẩn cấp nơi ở của Hoàng Trường A thu giữ 01 chiếc kìm cộng lực mà Hoàng Trường A đã trộm cắp tại số nhà 175, đường L, phường T, thành phố L. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc kìm cho ông Nguyễn Xuân N.

Trước đó, ngày 18/5/2016 bị cáo Hoàng Trường A đã bị Tòa án nhân dân thành phố L xử phạt 06 tháng tù về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản", lần vi phạm này của bị cáo thuộc trường hợp phạm tội khi chưa được xóa án tích.

Tại bản cáo trạng số 194/KSĐT ngày 31 tháng 10 năm 2017, Viện kiểm sát nhân dân thành phố L đã truy tố bị cáo Hoàng Trường A về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo Hoàng Trường A khai nhận:

Khoảng 02 giờ ngày 10/9/2017 Hoàng Trường A đã lấy trộm chiếc kìm cộng lực tại tầng 02 của ngôi nhà đang xây dựng ở số 175, đường L, phường T, thành phố L đem về nhà ở của mình cất giấu.

Trong phần tranh luận, trong lời tự bào chữa, bị cáo Hoàng Trường A thừa nhận việc bị truy tố và xét xử là không oan. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Người bị hại ông Nguyễn Xuân N vắng mặt tại phiên tòa, nhưng trong lời khai của mình tại Cơ quan điều tra ông Nguyễn Xuân N trình bày: Trong khi đang thi công xây dựng nhà tại số 175, đường L, phường T, thành phố L, ông Nguyễn Xuân N bị mất trộm 01 chiếc kìm cộng lực. Cơ quan Công an đã tìm ra thủ phạm là Hoàng Trường A, thu lại chiếc kìm và đã trao trả cho ông Nguyễn Xuân N. Ông Nguyễn Xuân N không yêu cầu bị cáo Hoàng Trường A bồi thường gì khác.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L giữ nguyên nội dung quyết định đã truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Hoàng Trường A phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 138; Điều 33; điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự.

- Xử phạt bị cáo Hoàng Trường A từ 09 đến 12 tháng tù.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung vì bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản.

- Về bồi thường thiệt hại: Xác nhận chiếc kìm cộng lực mà bị cáo trộm cắp đã được Cơ quan điều tra trả lại cho chủ sở hữu là ông Nguyễn Xuân N, ông Nguyễn Xuân N không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm.

- Về án phí: Buộc bị cáo phải phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác;

XÉT THẤY

Lời khai tại phiên tòa của bị cáo Hoàng Trường A phù hợp với các lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và lời khai của người bị hại, phù hợp với biên bản thu giữ vật chứng; lời khai của bị cáo còn phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó đủ căn cứ xác định: Khoảng 02 giờ ngày 10/9/2017, Hoàng Trường A đã có hành vi trộm cắp chiếc kìm cộng lực của ông Nguyễn Xuân N tại tầng 2 của ngôi nhà đang xây dựng ở số 175, đường L, phường T, thành phố L đem về nhà ở của mình cất giấu thì bị Công an bắt giữ.

Kết quả định giá của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố L xác định trị giá chiếc kìm cộng lực là 228.000 đồng.

Tháng 5/2016, bị cáo Hoàng Trường A đã bị Tòa án nhân dân thành phố L xử phạt 06 tháng tù về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" chưa được xóa án. Lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp phạm tội trong khi chưa được xóa án tích.

Vì vậy, đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Hoàng Trường A đã phạm tội “ Trộm cắp tài sản"  theo khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự. Việc truy tố bị cáo về tội danh, điều khoản trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ; gây dư luận bất bình, phẫn nộ trong nhân dân, ảnh hưởng tới trật tự an toàn xã hội tại địa phương.

Để có căn cứ quyết định hình phạt, ngoài việc xem xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo, cần xem xét đến nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

Xét về nhân thân: Bị cáo là người đã trưởng thành, có đủ nhận thức về xã hội và pháp luật; đã bị xét xử và có thời gian tập trung cải tạo nhưng không lấy đó làm bài học để tu dưỡng trở thành người làm ăn lương thiện, mà tiếp tục dấn sâu vào con đường phạm tội.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Tội phạm bị cáo thực hiện thuộc tội ít nghiêm trọng, tuy nhiên đây không phải là lần đầu bị cáo phạm tội. Vì vậy, bị cáo chỉ được hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự.

Căn cứ các tình tiết giảm nhẹ, các yếu tố về nhân thân, cần cách  ly  bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định, đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo thành người công dân tốt, có ích cho gia đình và xã hội. Như vậy mới có tác dụng giáo dục riêng và răn đe, phòng ngừa chung.

Theo biên bản xác minh ngày 12/10/2017 tại nơi bị cáo đăng ký hộ khẩu và nơi cư trú đã xác định: Bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập, không có tài sản, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về dân sự: Quá trình điều tra đã xác định được chủ sở hữu chiếc kìm cộng lực là ông Nguyễn Xuân N, trú tại: Số 166, đường L, phường T, thành phố L. Ngày 14/10/2017, Cơ quan điều tra Công an thành phố L đã trả lại chiếc kìm cho ông Nguyễn Xuân N. Ông Nguyễn Xuân N không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm.

Xét lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, đề nghị về mức hình phạt và các vấn đề khác khi áp dụng đối với bị cáo là có căn cứ, Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về án phí: Áp  dụng khoản 1, 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án, phí lệ phí Tòa án; Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm sung công quỹ Nhà nước.

Bị cáo và người bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của Pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Hoàng Trường A phạm tội "Trộm cắp tài sản".

Áp dụng khoản 1 Điều 138; Điều 33; điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt Hoàng Trường A 09 (chín) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 22/9/2017. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về dân sự: Áp dụng khoản 3 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Xác nhận chiếc kìm cộng lực mà bị cáo Hoàng Trường A trộm cắp đã được Cơ quan điều tra trả lại cho chủ sở hữu là ông Nguyễn Xuân N, ông Nguyễn Xuân N không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 1, 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án, phí lệ phí Tòa án; Buộc bị cáo Hoàng Trường A phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm sung công quỹ Nhà nước.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

287
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 183/2017/HSST ngày 23/11/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:183/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về