Bản án 179/2019/DS-ST ngày 22/10/2019 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 179/2019/DS-ST NGÀY 22/10/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 22 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 452/2019/TLST-DS ngày 09 tháng 10 năm 2019 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 276/2019/QĐXXST-DS ngày 09 tháng 10 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng thƣơng mại cổ phần TV

Địa chỉ trụ sở chính: LH, phường LD, quận Đ, Thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Ngô Chí D – Chức vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Hiền Th – Chức vụ: Trưởng phòng - Phòng thu hồi nợ pháp lý kiêm quản lý pháp chế cho Phòng an ninh và Phòng Kiểm soát guan lận, Phòng thu hồi nợ pháp lý, Trung tâm thu hồi nợ - Khối tín dụng tiêu dùng – Ngân hàng thương mại cổ phấn TV (Văn bản ủy quyền số 29/2017/UQ-CT ngày 22/6/2017)

Ông Lê Hiền Thảo ủy quyền lại cho bà Nguyễn Kim T, sinh năm 1996; Địa chỉ liên lạc: Đường số 1, PĐ, Phường 16, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh tham gia tố tụng. (Theo văn bản ủy quyền số 8000/2019/UQ-GĐK-TDTD ngày 05/8/2019) (có mặt).

2. Bị đơn: Ông Trần Phú C, sinh năm 1979.

Đa chỉ: ấp H, xã P, huyện N, tỉnh Long An. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 06/8/2019, quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là Ngân hàng thương mại cổ phần TV (viết tắt là Ngân hàng) do bà Nguyễn Kim Tiền làm đại diện trình bày: Ngày 30/10/2014, ông Trần Phú C có ký hợp đồng tín dụng số No 032736 (Nay đã đồng bộ thành số 20141205-103020-0001) với Ngân hàng để vay số tiền 24.150.000 đồng, với lãi suất cho vay thỏa thuận là 3.75%/ tháng, mục đích vay là để mua sắm dụng cụ gia đình. Theo thỏa thuận trong hợp đồng nêu trên, ông C có trách nhiệm thanh toán số tiền 34.575.000 đồng (gồm cả gốc và lãi), trả chậm liên tiếp trong vòng 20 tháng, 19 tháng đầu, mỗi tháng trả 11.738.000 đồng, tháng cuối cùng trả 1.735.000 đồng, kỳ thanh toán đầu tiên bắt đầu từ ngày 09/01/2015. Các tháng tiếp theo thanh toán vào ngày 09 dương lịch hàng tháng.

Thc hiện hợp đồng này, ông C đã nhận đủ số tiền vay để tiêu dùng cá nhân và thanh toán cho Ngân hàng 01 ký với số tiền là 1.000.000 đồng. Kể từ ngày 28/11/2018 cho đến nay, ông C không thanh toán thêm bất cứ khoản tiền nào, dù Ngân hàng đã dùng nhiều biện pháp nhắc nhở, yêu cầu thanh toán.

Do ông C trễ hạn thanh toán, Ngân hàng khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông C thanh lý hợp đồng tín dụng nêu trên và trả một lần cho Ngân hàng toàn bộ số tiền nợ bao gồm các khoản sau:

Trả toàn bộ khoản nợ gốc: 23.150.000 đồng.

Trả toàn bộ khoản nợ lãi: 10.607.000 đồng.

Tng số tiền Ngân hàng khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Trần Phú C phải thanh toán là 33.757.000 đồng (Ba mươi ba triệu tám trăm sáu mươi chín nghìn đồng). Sau khi khởi kiện, ông C có thanh toán tiếp cho Ngân hàng số tiền 800.000 đồng trừ vào số nợ gốc. Như vậy, tại phiên tòa, Ngân hàng yêu cầu ông Trần Phú C phải thanh toán cho Ngân hàng 01 lần số tiền gốc và lãi là 32.957.000 đồng như sau:

Trả toàn bộ khoản nợ gốc: 22.350.000 đồng.

Trả toàn bộ khoản nợ lãi: 10.607.000 đồng.

Các khoản lãi theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng nêu trên đã chấm dứt không còn phát sinh nữa. Đây là loại hình cho vay trả góp hàng tháng, đã được tính tiền lãi vào số tiền dư nợ gốc ban đầu nên trong giai đoạn thi hành án, ông Trần Phú C không phải trả thêm tiền lãi trên số tiền còn nợ.

Quá trình giải quyết vụ án, ông Trần Phú C trình bày: Ông thống nhất với lời trình bày của đại diện của nguyên đơn về thời gian ký hợp đồng, về số tiền đã vay, số tiền phải trả và số lần ông đã trả nợ cho Ngân hàng. Ông thống nhất với số tiền mà Ngân hàng đã yêu cầu trong phiên hòa giải ngày 09/10/2019 ông còn nợ Ngân hàng tổng cộng gốc và lãi là 32.957.000 đồng và đồng ý trả, nhưng do hoàn cảnh gia đình khó khăn, thu nhập không ổn định, ông không có khả năng trả một lần hết số tiền nợ nêu trên cho Ngân hàng. Ông xin Ngân hàng cho ông trả dẫn mỗi tháng 700.000 đồng cho đến khi hết nợ.

Tòa án đã tiến hành công khai chứng cứ và hòa giải vụ án theo quy định của pháp luật, nhưng không thành.

Tại phiên toàn, bị đơn vắng mặt, có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có mặt vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện như đã trình bày.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng và thẩm quyền giải quyết vụ án: Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh Vượng khởi kiện yêu cầu ông Trần Phú C phải thanh toán số tiền nợ vay 32.957.000 đồng (gồm cả gốc và lãi) từ hợp đồng tín dụng số No 032736 ngày 30/10/2014 (Nay đã đồng bộ thành số 20141205- 103020-0001). Do tranh chấp giữa tổ chức với cá nhân, bị đơn là ông C hiện tại đang cư trú tại xã P, huyện N, tỉnh Long An. Quan hệ pháp luật là “Tranh chấp hợp đồng dân sự về cho vay tài sản” mà cụ thể là tranh chấp hợp đồng tín dụng. Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa thụ lý giải quyết theo thủ tục sơ thẩm theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Bị đơn có đơn đề nghị Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt căn cứ Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[3] Về nội dung tranh chấp:

[3.1] Căn cứ theo lời trình bày, các tài liệu, chứng cứ của đại diện nguyên đơn được bị đơn thừa nhận thì xác định giữa Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh Vượng và ông Trần Phú C có xác lập hợp đồng tín dụng số No 032736 ngày 30/10/2014 (Nay đã đồng bộ thành số 20141205-103020-0001) và bị đơn còn nợ nguyên đơn số tiền 32.957.000 đồng (gồm cả gốc và lãi), trong đó, nợ gốc là 22.350.000 đồng, nợ lãi là 10.607.000 đồng là có thật. Vì vậy, đây là tình tiết không phải chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3.2] Bị đơn là ông Trần Phú C thừa nhận còn nợ Ngân hàng số tiền nợ gốc và lãi là 32.957.000 đồng và có ý kiến xin trả dần cho Ngân hàng mỗi tháng là 700.000 đồng cho đến khi hết nợ, nhưng yêu cầu này không được đại diện của nguyên đơn đồng ý, mặt khác pháp luật cũng không có quy định nào cho phép bên vi phạm nghĩa vụ trả nợ được trả dần, nên Hội đồng xét xử không có căn cứ để xem xét.

[3.3] Do ông Trần Phú C vi phạm nghĩa vụ trả nợ như đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng nêu trên, nên Ngân hàng khởi kiện yêu cầu ông C phải thanh nợ gốc và nợ lãi tổng cộng 32.957.000 đồng là có căn cứ phù hợp với quy định tại Điều 474 của Bộ luật dân sự năm 2005, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3.4] Về mức lãi suất cho vay là 3.75%/tháng và cách tính lãi theo thỏa thuận giữa Ngân hàng với ông C được áp dụng đúng như hai bên thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng số No 032736 ngày 30/10/2014 (Nay đã đồng bộ thành số 20141205-103020-0001) là đúng pháp luật, phù hợp với quy định tại Điều 91 của Luật các tổ chức tín dụng; Điều 11 quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng (ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001, được sửa đổi, bổ sung tại Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN ngày 03/02/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước) nên có căn cứ chấp nhận.

[3.5] Về lãi suất chậm thi hành án: Đại diện của Ngân hàng đã xác định đây là loại hình cho vay trả góp hàng tháng, đã được tính tiền lãi vào số tiền dư nợ gốc ban đầu nên trong giai đoạn thi hành án, ông Trần Phú C không phải trả thêm tiền lãi trên số tiền còn nợ.

[4] Về án phí: Căn cứ vào Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 26 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án; Buộc bị đơn là ông Trần Phú C phải chịu 1.647.850 đồng (Một triệu sáu trăm bốn mươi bảy nghìn tám trăm năm mươi đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm sung công quỹ Nhà nước. Nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm do yêu cầu khởi kiện được chấp nhận. Hoàn trả số tiền tạm ứng án phí cho nguyên đơn.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 5, Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 483 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 471, 474 của Bộ luật Dân sự năm 2005; Khoản 16 Điều 4, Điều 11, Điều 91, Điều 93, Điều 95 của Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010, sửa đổi bổ sung năm 2017; Mục 3 phần I Thông tư liên tịch 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Bộ Tư pháp – Bộ Tài chính – TAND Tối cao – VKSND Tối cao hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản; Điều 6, Điều 26 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần TV đối với ông Trần Phú C về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”; Buộc ông Trần Phú C phải trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần TV số tiền nợ vay là 32.957.000 đồng (Ba mươi hai triệu chín trăm năm mươi bảy nghìn đồng), trong đó, nợ gốc là 22.350.000 đồng, nợ lãi là 10.607.000 đồng.

2. Về lãi suất chậm thi hành án: Đại diện của Ngân hàng thương mại cổ phần TV đã xác định đây là loại hình cho vay trả góp hàng tháng, đã được tính tiền lãi vào số tiền dư nợ gốc ban đầu nên trong giai đoạn thi hành án, ông Trần Phú C không phải trả thêm tiền lãi trên số tiền còn nợ.

3. Về án phí:

3.1 Buộc ông Trần Phú C phải nộp 1.647.850 đồng (Một triệu sáu trăm bốn mươi bảy nghìn tám trăm năm mươi đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm sung công quỹ Nhà nước.

3.2 Ngân hàng thương mại cổ phần TV không phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn lại số tiền tạm ứng án phí cho Ngân hàng thương mại cổ phần TV là 844.000 đồng (Tám trăm bốn mươi bốn nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003421 ngày 20/8/2018 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

4. Án xử sơ thẩm công khai, nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày được Tòa án tống đạt hợp lệ bản án.

5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

269
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 179/2019/DS-ST ngày 22/10/2019 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:179/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 22/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về