TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NINH BÌNH, TỈNH NINH BÌNH
BẢN ÁN 177/2019/HS-ST NGÀY 31/12/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 31 tháng 12 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 167/2019/TLST-HS ngày 02 tháng 12 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 178/2019/QĐXXST-HS, ngày 17 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Đức H (tên gọi khác:không), sinh năm 1981,tại xã T, huyện H, tỉnh Ninh Bình; Nơi cư trú: Thôn T, xã T, huyện H , tỉnh Ninh Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 5/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị N; Vợ: Trần Thị H ( đã ly hôn), con: có 1 con sinh năm 2005.
Tiền án: Bản án số 100/2012/HSST ngày 27/7/2012,Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình xử phạt 30 tháng tù về tội «Trộm cắp tài sản »; Bản án số 133/2016/HSST ngày 28/9/2016, Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình xử phạt 27 tháng tù về tội « Trộm cắp tài sản ».
Tiền sự: không;
Nhân thân: Bản án số 06/2006/HSST ngày 27/03/2006, Tòa án nhân dân huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình xử phạt 24 tháng tù về tội « Mua bán trái phép chất ma túy » ; Ngày 07/5/2009 Công an huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 14/QĐ-XPVPHC về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy số tiền 500.000 đồng; Ngày 18/01/2011 UBND huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình ra quyết định số 251/QĐ-CT về việc đưa người vào cơ sở bắt buộc chữa bệnh thời hạn 24 tháng ; Án tích và vi phạm hành chính của bị cáo đã được xóa;
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 08/10/2019, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình cho đến nay (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Võ Văn T, sinh năm 1982; Địa chỉ: Thôn T, xã T, huyện H, tỉnh Ninh Bình; (Vắng mặt).
2.3. Người làm chứng: Chị Lý Thị X, sinh năm 1987; Địa chỉ: Thôn Tr, xã Tr, huyện H, tỉnh Ninh Bình; (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt nhau sau:
Hồi 21 giờ 30 phút, ngày 22/9/2019, Tổ tuần tra Phòng cảnh sát cơ động, Công an tỉnh Ninh Bình làm nhiệm vụ tại đường Trịnh Tú, phường Ninh Khánh, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình phát hiện Nguyễn Đức H điều khiển xe mô tô BKS 35F7-1583 chở chị Lý Thị X có biểu hiện nghi vấn, xe không gương, chuyển hướng rẽ trái không bật xi nhan, tổ tuần tra đã ra yêu cầu dừng xe kiểm tra hành chính. Quá trình kiểm tra Nguyễn Đức H biết không che giấu được hành vi của mình đã tự giác lấy trong túi quần bên phải phía trước 01 túi nilon màu trắng có KT 3x5cm bên trong có chứa 02 gói nhỏ được gói ngoài bằng giấy bạc màu trắng bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng. Nguyễn Đức H tự khai nhận đây là gói ma túy loại Heroine mà H vừa mua với giá 400.000 đồng của một người đàn ông không quen biết tại thôn Dinh Tần, xã Yên Bằng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định để sử dụng. Tổ tuần tra đã tiến hành thu giữ niêm phong vật chứng theo đúng quy định và đưa Nguyễn Đức H cùng tang vật, những người liên quan về trụ sở Công an phường Ninh Khánh, thành phố Ninh Bình lập biên bản sự việc, ngoài ra còn thu giữ của H 01 xe mô tô LiFan dán nhãn Wave & màu xanh đen BKS 35F7-1583.
Cơ quan Công an tiến hành cân xác định khối lượng số chất bột dạng cục màu trắng thu giữ của Nguyễn Đức H có khối lượng là 0,12 gam, ký hiệu M gửi giám định xác định có phải là ma túy không, nếu là ma túy thì là loại ma túy gì, khối lượng ma túy .
Tại bản kết luận giám định số 295/KLGĐ-PC09-MT ngày 25/9/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình, kết luận: Mẫu chất bột dạng cục màu trắng gửi giám định ký hiệu M có khối lượng 0,1122 (không phảy một nghìn một trăm hai mươi hai) gam, là ma túy, loại Heroine. Heroine là chất ma tuý thuộc bảng Danh mục I, số thứ tự 9; Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ. Số heroine thu giữ của bị cáo sau khi lấy mẫu giám định (không hoàn trả mẫu vật) số còn lại 0,0700 gam cùng toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong , Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Ninh Bình đã chuyển cho Chi cục thi hành án dân sự thành phố Ninh Bình quản lý để giải quyết cùng vụ án.
Quá trình điều tra Nguyễn Đức H khai nhận: Do có nhu cầu sử dụng Heroine nên H đã bắt xe buýt từ nhà sang khu vực thôn Dinh Tần, xã Yên Bằng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định mua Heroine về sử dụng. Khi đến nơi H gặp một người đàn ông không quen biết đang đứng ở ven đường quốc lộ 10, H hỏi “ có bán em một cái” ý hỏi mua Heroine, anh ta nói lấy bao nhiêu, H đưa 400.000 đồng , anh ta đưa cho H 2 gói Heroine được gói ngoài bằng giấy bạc màu trắng. H mang 2 gói giấy bạc về nhà và lấy một ít Heroine trong một gói giấy bạc ra sử dụng rồi gói lại và bỏ cả 2 gói giấy bạc vào 01 túi nilon màu trắng bỏ vào túi quần bên phải để sử dụng dần. Sau đó H mượn xe mô tô của anh Võ Văn T đi đón chị Lý Thị X ở chỗ làm về nhà thì bị Tổ tuần tra phát hiện thu giữ ma túy.
Tại bản cáo trạng số 168/CT-VKS, ngày 26 tháng 11 năm 2019 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình truy tố bị cáo Nguyễn Đức H ra trước Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình để xét xử về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà Kiểm sát viên tham gia phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; Áp dụng: điểm o khoản 2 Điều 249; điểm r,s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đức H từ 5 năm đến 5 năm 6 tháng tù; Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam 08/10/2019; Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ toàn bộ số ma túy còn lại sau khi gửi giám định cùng toàn bộ vỏ, bao gói ban đầu thu giữ của Nguyễn Đức H; Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa : Bị cáo Nguyễn Đức H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng, không có ý kiến tranh luận gì và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2] Về tội danh, hình phạt đối với bị cáo: Tại phiên toà bị cáo Nguyễn Đức H đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như biên bản sự việc, vật chứng thu giữ; kết luận giám định số 295/KLGĐ-PC09-MT ngày 25/9/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình và phù hợp với lời khai của người làm chứng. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Ngày 22/9/2019 tại đường Trịnh Tú, phường Ninh Khánh, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình bị cáo Nguyễn Đức H đã có hành vi cất giữ bất hợp pháp trong người 0,1122gam ma túy loại Heroine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân thì bị phát hiện bắt giữ. Bị cáo đã 3 lần bị kết án: Năm 2006 bị Tòa án nhân dân huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình xử phạt 24 tháng tù về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”, phạt tiền 5.000.000 đồng và 50.000đ án phí, ngày 15/3/2007 ra trại, ngày 22/9/2011 Chi cục thi hành án dân sự huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình ra quyết định đình chỉ thi hành án đối với số tiền phạt và án phí, ngày 26/02/2012 bị cáo phạm tội mới nên theo quy định tại Điều 7, Điều 70, Điều 73 Bộ luật hình sự năm 2015 bị cáo đương nhiên được xóa án tích đối với lần bị kết án này; Ngày 27/7/2012 bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình xử phạt 30 tháng tù về tội «Trộm cắp tài sản » ra trại ngày 01/9/2014 và ngày 25/4/2016 bị cáo phạm tội mới và bị Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình xử phạt 27 tháng tù về tội « Trộm cắp tài sản » bản án xác định bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, ra trại ngày 09/7/2018, do vậy tính đến ngày 22/9/2019 bị cáo chưa được xóa án tích đối với 2 lần bị kết án này và lần bị kết án năm 2016 được tính là tái phạm nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm ( đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do lỗi cố ý). Như vậy hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý mà còn làm ảnh hưởng trực tiếp đến trật tự an toàn xã hội, đến sức khoẻ của con người và là nguyên nhân làm phát sinh nhiều tệ nạn xã hội khác…Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự biết rõ việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng để thoả mãn nhu cầu của bản thân bị các vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội, chứng tỏ bị cáo bất chấp coi thường pháp luật. Để đảm bảo trật tự an toàn xã hội cũng như có tác dụng giáo dục bị cáo thì việc truy tố, đưa ra xét xử buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự là cần thiết.
Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu nhiều lần bị xử lý vi phạm hành chính và bị kết án về tội phạm liên quan đến ma túy.
Về tình tiết tăng nặng: Không có do các tiền án của bị cáo là tình tiết định khung .
Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo; khi bị công an kiểm tra hành chính bị cáo đã tự giác giao nộp gói ma túy, đây là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, r khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Căn cứ tính chất mức độ hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để tạo điều kiện cho bị cáo học tập, lao động, cải tạo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội. Hội đồng xét xử thấy hành vi, tội danh và điều khoản áp dụng tại bản cáo trạng, lời luận tội, các chứng cứ buộc tội đối với bị cáo như Kiểm sát viên trình bày tại phiên tòa là có căn cứ và đúng pháp luật.
Về hình phạt bổ sung: Xét hành vi tàng trữ ma túy của bị cáo chỉ nhằm mục đích sử dụng cho bản thân, không mang tính chất vụ lợi, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[4] Các vấn đề khác:
- Đối với chị Lý Thị X là người đi xe mô tô cùng với bị cáo H: quá trình điều tra xác định chị X nhờ bị cáo chở về nhà, không biết việc bị cáo mua và cất giấu ma túy trong người nên không có căn cứ để xử lý đối với chị X về hành vi đồng phạm.
- Đối với hành vi điều khiển xe mô tô BKS 35F7-1583 không mang theo giấy phép lái xe, đăng ký xe, xe không gương, chuyển hướng rẽ trái không bật xi nhan của bị cáo đã vi phạm luật giao thông đường bộ nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Ninh Bình đã chuyển phần tài liệu có liên quan đến Đội cảnh sát giao thông Công an thành phố Ninh Bình để xử lý là đúng quy định của pháp luật.
- Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ: Bị cáo khai mua của một người đàn ông không quen biết đứng ở ven đường quốc lộ 10, thuộc thôn Dinh Tần, xã Yên Bằng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, bị cáo không biết tên, tuổi địa chỉ cụ thể của người bán ma túy cho mình nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Ninh Bình không có căn cứ điều tra, làm rõ để xử lý.
- Vật chứng của vụ án: Số ma túy, loại heroine thu giữ của bị cáo có khối lượng 0,1122gam, sau khi lấy mẫu giám định (không hoàn trả mẫu vật) số còn lại 0,0700 gam cùng toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu huỷ.Tất cả được niêm phong trong một phong bì ghi số 295/KLGĐ-PC09-MT.
- Đối với 01 xe mô tô LiFan dán nhãn Wave & màu xanh đen BKS 35F7- 1583 thu giữ của bị cáo Nguyễn Đức H: quá trình điều tra xác định chiếc xe này bị cáo mượn của anh Vũ Đức T là anh rể của bị cáo H. Anh T mua chiếc xe năm 2016 tại một cửa hàng bán xe máy cũ ở khu vực chợ xe Dịch Vọng, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội với giá 2.000.000 đồng, khi mua không viết giấy bán xe, không có đăng ký xe. Kết quả tra cứu chiếc xe trên không có trong cơ sở dữ liệu lưu trữ tại Công an tỉnh Ninh Bình và hệ thống lưu trữ xe máy tang vật toàn quốc do Cục C01-Bộ công an quản lý. Do chưa xác định được nguồn gốc chiếc xe nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Ninh Bình đã tách phần tài liệu và chiếc xe mô tô trên để tiếp tục điều tra làm rõ, đề nghị xử lý sau là đúng quy định của pháp luật.
Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điểm o khoản 2 Điều 249; điểm r,s khoản 1 Điều 51; Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106; Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Đức H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đức H 05 (năm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam ngày 08/10/2019.
Việc xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư niêm phong theo đúng quy định của pháp luật mặt trước ghi “ Mẫu vật hoàn trả, số 295/KLGĐ- PC09-MT ngày 25/9/2019” (Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/12/2019 giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Ninh Bình và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Ninh Bình).
Về án phí: Bị cáo Nguyễn Đức H phải chịu 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Án xử sơ thẩm công khai bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.
Áp dụng Điều 26 Luật thi hành án dân sự: “Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”./.
Bản án 177/2019/HS-ST ngày 31/12/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 177/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/12/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về