Bản án 176/2018/HSST ngày 14/08/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA - TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 176/2018/HSST NGÀY 14/08/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14- 8-2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 259/2018/TLST-HS ngày 06 tháng 7 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 181/2018/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 8 năm 2018 đối với các bị cáo:

1. Phan Viết T - Sinh năm 1991; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Đội 5, xã N, huyện S, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: lao động tự do; văn hóa: 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Mạnh C và bà Trần Thị T; Tiền án: ngày 20/01/2014, TAND quận Ba Đình, thành phố Hà Nội xử phạt 10 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 23/9/2015 TAND huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 15 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”, tổng hợp với 20 tháng tù tại bản án số 129/2015/HSST ngày 26/5/2015 của TAND Quận Hai Bà Trưng, TP. Hà Nội, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 35 tháng tù. (Chấp hành xong hình phạt ngày 20/12/2017). Tiền sự: không. Tạm giữ ngày 21/4/2018, tạm giam ngày 30/4/2018. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Lê Trọng C - Sinh năm 1985; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn V, thị trấn N, huyện C, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: lao động tự do; văn hóa: 6/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Trọng C và bà Bùi Thị H; vợ: Hà Thị V, có 03 con: lớn nhất sinh năm 2009, nhỏ nhất sinh năm 2017; Tiền án: ngày 17/01/2017, TAND huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 12 tháng cải tạo không giam giữ về tội “ đánh bạc”. Tiền sự: không. Tạm giữ ngày 21/4/2018, tạm giam ngày 30/4/2018. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14h20’ ngày 21/4/2018 tại khu vực cổng bệnh viện H, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa, tổ công tác phòng PC 47 Công an tỉnh Thanh Hóa đang làm nhiệm vụ đã phát hiện Lê Trọng C, Phan Viết T có biểu hiện nghi vấn có ma túy, tổ công tác đã tiến hành kiểm tra đối với Lê Trọng C và Phan Viết T. Qua kiểm tra thu giữ trong túi quần bên trái phía trước Lê Trọng C đang mặc gói nilon màu trắng KT(3x7)cm bên trong có chứa các hạt tinh thể, theo C khai là ma túy đá C vừa nhờ Phan Viết T mua hộ về mục đích sử dụng, 01 điện thoại di động Samsung đã cũ. Thu giữ của Phan Viết T 01 điện thoại di dộng Nokia màu đen (đã qua sử dụng), 500.000VNĐ. Tổ công tác đã lập biên bản phạm tội quả tang đối với T, C.

Ngày 23/4/2018 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: các hạt tinh thể màu trắng của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 3,627g, loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra xác định: do nghiện ma túy nên trưa ngày 21/4/2018 Lê Trọng C điện thoại cho Phan Viết T nhờ T mua hộ ma túy để sử dụng, T đồng ý và hẹn gặp C ở cổng bệnh viên H, Phường Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa. Sau đó, Phan Viết T đi cùng em họ là Mai Thị H lên thành phố gặp C. Khoảng 14h, T gặp C ở cổng bệnh viện H, tại đây C đưa cho T 4 triệu đồng, T nhận tiền và điện thoại cho một người phụ nữ tên P hỏi mua ma túy, P đồng ý bán ma túy cho T và hẹn T ngồi chờ ở cổng bệnh viện H sẽ có người ra đưa ma túy. Khoảng 15 phút sau, khi T và C đang ngồi ở quán nước trước cổng bệnh viện thì có 01 thanh niên đi xe mô tô ra, T lại gặp, đưa 4 triệu đồng cho người thanh niên và nhận ma túy từ người thanh niên, sau đó T mang gói ma túy lại quán nước đưa cho C, khi cả hai đang chuẩn bị đứng lên đi về thì bị tổ công tác phòng PC 47 công an tỉnh Thanh Hóa phát hiện, bắt quả tang.

Đối với người phụ nữ tên P bán ma túy cho T, người thanh niên mang ma túy ra giao cho T, T không biết rõ địa chỉ cụ thể nên không có cơ sở xác định.

Mai Thị H đi cùng T, tuy nhiên việc T mua hộ ma túy cho C thì H không biết, do đó không có cơ sở xử lý H.

Quá trình bắt quả tang, cơ quan điều tra thu giữ 02 điện thoại di động ( của T 01 điện thoại di động Nokia, C 01 điện thoại Samsung), qua điều tra xác minh đây là tài sản của T và C dùng để liên lạc cá nhân, đồng thời giao dịch mua ma túy, do đó cần tịch thu sung công quỹ nhà nước. Đối với số tiền 500.000đ thu giữ của T qua xác minh đây là tài sản của T không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho Tây.

Tại cáo trạng số 173/CTr-VKS-MT ngày 05/7/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa đã truy tố bị cáo Phan Viết T về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự; truy tố bị cáo Lê Trọng C về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, trong lời luận tội, đại diện VKSND TP. Thanh Hóa giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng:

- Điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 38, Điều 58 Bộ luật hình sự đề nghị xử phạt bị cáo T mức án từ 06 năm tù đến 06 năm 06 tháng tù.

- Điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 38, Điều 58 Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo C mức án từ 03 năm 06 tháng tù đến 04 năm tù.

Đề nghị tịch thu tiêu hủy số ma túy còn là sau giám định là tang vật vụ án.

Các bị cáo nhận tội, không có ý kiến tranh luận, chỉ xin xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1. Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận: Khoảng 14h20’ ngày 21/4/2018 tại khu vực trước cổng bệnh viện H, Phường Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa, Phan Viết T mua hộ cho Lê Trọng C 3,627g ma túy, loại Methamphetamine, mục đích mua để sử dụng. Khi C đang bỏ 3,627g ma túy trong túi quần thì bị tổ công tác Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Thanh Hóa phát hiện bắt quả tang. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay thống nhất với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, cùng các tài liệu khác phản ánh trong hồ sơ].

[ Bị cáo Phan Viết T: ngày 20/01/2014, TAND quận Ba Đình, thành phố Hà Nội xử phạt 10 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”, ngày 23/9/2015 TAND huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 15 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”, tổng hợp với 20 tháng tù tại bản án số 129/2015/HSST ngày 26/5/2015 của TAND Quận Hai Bà Trưng, TP. Hà Nội, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 35 tháng tù (chấp hành xong hình phạt ngày 20/12/2017). Bị cáo T đã tái phạm, chưa được xóa án tích, lại phạm tội do cố ý nên bị cáo phải chịu tình tiết định khung “ tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự. Bị cáo Lê Trọng C phải chịu hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi nêu trên của bị cáo Phan Viết T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự; bị cáo Lê Trọng C đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là đúng pháp luật].

[2. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về ma túy, xâm hại trật tự an toàn xã hội, là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác. Trong vụ án này, các bị cáo cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội nhưng ở dạng đồng phạm giản đơn. Tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, cần phải được xử lý nghiêm, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi cộng đồng xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục].

[3. Bị cáo Lê Trọng C có 01 tiền án: ngày 17/01/2017, TAND huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 12 tháng cải tạo không giam giữ về tội “đánh bạc”, chưa được xóa án tích, nay lại phạm tội nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, cần xem xét quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo. Căn cứ điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự giảm nhẹ một phần hình phạt để các bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật, yên tâm cải tạo thành công dân tốt. Các bị cáo phạm tội về ma túy, không có tính chất vụ lợi nên không phạt tiền đối với bị cáo].

[4.Về vật chứng: 3,324g Methamphetamine (tang vật còn lại sau giám định) cần tịch thu tiêu hủy và 02 điện thoại di dộng (01 Nokia màu đen và 01 Samsung màu vàng nhạt) là công cụ phạm tội cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước, theo điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tiền ngân hàng Nhà nước Việt nam 500.000đ là tài sản của Phan Viết T không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho Tây, theo điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự].

[ 5. Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật].

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự (đối với bị cáo T). Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự (đối với bị cáo C). Điều 17, Điều 38, Điều 58 Bộ luật hình sự; Khoản 1, điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ( đối với 02 bị cáo).

Tuyên bố: Các bị cáo Phan Viết T, Lê Trọng C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt:

- Bị cáo Phan Viết T: 06 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/4/2018.

- Bị cáo Lê Trọng C: 03 năm 06 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/4/2018.

Vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy 3,324g Methamphetamine tại phong bì ma túy niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an Thanh Hóa, được đóng dấu của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an Thanh Hóa, có chữ ký, chữ viết của Lê Minh Tiến, Nguyễn Trần Đăng, Lê tài Huy.

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 02 điện thoại di động (01 điện thoại Nokia màu đen, model: TA-1034,imel: 358567080487453 và 01 điện thoại Samsung màu vàng nhạt, imel: 357558/06/703462/5, bị vỡ màn hình trước và màn hình sau). 02 điện thoại đều đã cũ, không kiểm tra chất lượng máy.

- Trả lại cho Phan Viết T số tiền 500.000đ (Năm trăm ngàn đồng).

Toàn bộ vật chứng trên hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa theo biên bản giao nhận vật chứng số 187 /THA ngày 06/8/2018 giữa Công an thành phố Thanh Hóa và Chi cục Thi hành án dân sự TP. Thanh Hóa.

Mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ án phí HSST.

Khi bản án có hiệu lực pháp luật, bị cáo có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7,9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 176/2018/HSST ngày 14/08/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:176/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về