Bản án 16/2020/HS-ST ngày 20/04/2020 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG HỒ, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 16/2020/HS-ST NGÀY 20/04/2020 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 4 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Hồ xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 14/2020/TLST-HS ngày 10 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2020/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 4 năm 2020 đối với:

Bị cáo Lương Tiểu B, sinh năm 1997. Tại Vĩnh Long. Nơi cư trú: ấp 1, xã Tân Lộc, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. Nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá 7/12; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: nam; con ông Lương Thanh N và bà Nguyễn Thị Ph; anh chị em ruột có 04 người lớn nhất sinh 1986 nhỏ nhất bị cáo; Tiền án: không; Tiền sự: không Nhân thân: Ngày 16/8/2016, bị Tòa án nhân dân huyện Tam Bình xử phạt 09 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản. Đến ngày 30/01/2017 bị can chấp hành xong hình phạt tù, bị can chấp hành xong phần án phí, tiền thu lợi bất chính sung công quỹ Nhà nước vào ngày 20/01/2017. Bị cáo bị tạm giữ,tạm giam từ ngày 28/12/2019 đến nay, có mặt tại tòa.

Bị hại: Anh Nguyễn Phú V, sinh năm 2000

Địa chỉ: ấp Phú Đức 2, xã Bình Phú, huyện Càng Long, tỉnh Trà V.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Nguyễn Mạch Đăng Kh, sinh năm 1994 (vắng)

Địa chỉ: ấp Bình Quí, xã Ngãi Tứ, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lương Tiểu B và Nguyễn Phú V có mối quan hệ bạn bè từ khoảng tháng 12/2018. B thường xuyên mượn xe môtô loại Exciter biển số kiểm soát 68E1 - 209.10 của anh V để làm phương tiện đi lại.Vào khoảng 18 giờ ngày 08/4/2019, B đến phòng trọ số 320 nhà trọ Trúc Hoa Viên thuộc ấp Phước Yên A, xã Phú Quới, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long để hỏi mượn xe của anh V. Do trước đó B đã mượn xe nhiều lần nên anh V tin tưởng đưa toàn bộ giấy tờ xe cùng xe 68E1 - 209.10 cho B điều khiển đi. B điền khiển xe đi chơi ở khu vực xã Hòa Phú, huyện Long Hồ đến khoảng 01 giờ ngày 09/4/2019, do không có tiền tiêu xài cá nhân nên B nảy sinh ý định chiếm đoạt xe của V. B điều khiển xe 68E1 - 209.10 đến thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Khi đến Thành phố Rạch Giá, B giả vờ nhắn tin sẽ tiếp tục mượn xe của V thì được V đồng ý. Sau đó, V có gọi điện thoại cho B yêu cầu trả xe nhưng B cố tình không bắt máy. Đến ngày 11/4/2019, B nhờ anh Nguyễn Mạch Đăng Khoa bạn của B cầm xe giúp. B nói dối là xe của gia đình nên anh Khoa đồng ý cầm xe giúp B. Khoa gặp người tên Hoàng (không rõ họ tên, địa chỉ) cầm xe với số tiền 13.000.000đ sau đó đưa toàn bộ 13.000.000đ cho B. B dùng số tiền cầm xe tiêu xài cá nhân hết. Sau khi tiêu xài hết số tiền cầm xe thì B đi đến tỉnh Phan Thiết tìm việc làm và không biết thông tin về xe mô tô 68E1 - 209.10.

Theo kết luận định giá tài sản số 57/HĐ ngày 27/12/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Long Hồ kết luận: loại Exciter biển số kiểm soát 68E1 - 209.10 của Nguyễn Phú V trị giá 31.943.000đ (Ba mươi mốt triệu, chín trăm bốn mươi ba ngàn đồng).

Tại bản Cáo trạng số:19/CT-VKS,ngày 09 tháng 3 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Hồ truy tố bị cáo Lương Tiểu B về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ Luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Ý kiến bị cáo tại tòa: bị cáo có ý định mượn xe của anh V để cầm lấy tiền tiêu xài. Sau khi lấy xe của V bị cáo đem về Rạch Giá nhờ Khoa cầm giá 13.000.000đồng. Bị cáo xin khai lại, bị cáo có ý định lấy xe của V sau khi mượn xe của V mới có ý định lấy xe của V. Bị cáo đồng ý bồi thường cho anh V số tiền 31.943.000đồng, bị cáo xác định có ý định chiếm đoạt xe của V là lúc mượn xe của V.

Người bị hại trình bày: Xe của tôi do cha, mẹ mượn tiền để mua cho tôi làm phương tiện đi học. Sau khi bị cáo chiếm đoạt, cha tôi chết, tôi phải nghĩ học về làm kiếm tiền để trả nợ. Hoàn cảnh của tôi rất khó khăn, tôi yêu cầu bị cáo bồi thường giá trị xe cho tôi là 31.943.000đồng. Về hình phạt tôi yêu cầu xử lý theo qui định của pháp luật.

Ý kiến kiểm sát viên tại tòa: B lưu quan điểm bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Hồ và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lương Tiểu B phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” đề nghị áp dụng điểm a khoản 1 Điều 175; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điều 38 bộ Luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

Về trách nhiệm dân sự: buộc bị cáo bồi thường cho bị hại số tiền 31.943.000đồng

Về án phí: Đề nghị án dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23, Điều 27 Nghị quyết 326/2016 ngày 30/12/2016 buộc bị cáo tiền án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm.

Lời trình bày sau cùng của bị cáo: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Tất cả các quyết định, hành vi tố tụng, thủ tục từ giai đoạn phát hiện tội phạm đến truy tố bị cáo. Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng và đầy đủ theo qui định của pháp luật tố tụng hình sự.

Anh Nguyễn Mạch Đăng Khoa được tòa án triệu tập, anh Kh vắng mặt tại phiên tòa. Trong quá trình Điều tra lời khai của anh Kh đã thể hiện rõ quyền và nghĩa vụ của mình, việc vắng mặt anh Kh không làm ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án Hội đồng xét xử thống nhất xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2] Về nội dung:

[2.1] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa cho thấy: Sau khi mượn xe mô tô của anh V bị cáo không trả lại mà đem cầm cố xe lấy tiền tiêu xài cá nhân và bỏ trốn. Lời khai này phù họp lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp lời khai người bị hại trong quá trình và tại phiên tòa, phù hợp với các tài liệu khác như : Lời khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, các loại giấy tờ về chủ quyền xe mô tô biển số 68E1-209.10, đủ căn cứ kết luận Lương Tiểu B phạm tội: “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Cáo trạng số 19/CT.VKS ngày 09/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Hồ truy tố bị cáo về tội “ Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” là có căn cứ pháp luật không oan sai.

[2.2] Hành vi của bị cáo rất nguy hiểm đã xâm phạm trực tiếp đến quyền về tài sản của người khác, hậu quả bị gây ra không chỉ làm thiệt hại đến tài sản của anh V mà còn làm ảnh hưởng đến đến quá trình học tập cũng như những khó khăn khăn khác về kinh tế cho người bị hại. Gây mất trật tự trong cuộc sống bình thường của mọi người. Tuy bị cáo đã xóa án tích, nhưng vẫn là vấn đề để đánh giá nhân thân bị cáo đã bị kết án. Tại phiên tòa bị cáo quanh co khai nhận nhiều vấn đề còn mâu thuẫn cho thấy bị cáo chưa thật sự ăn năn [2.3] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[2.4] Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo có cha là người có công với nước, bị cáo có thừa nhận việc chiếm đoạt xe của anh V, tại tòa bị cáo còn quanh co, thay đổi nhiều nội dung không có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chỉ xem xét tình tiết thành khẩn khai báo ăn năn hối cải cho bị cáo trong giới hạn.

[2.5]Về trách nhiệm dân sự: Anh V yêu cầu bị cáo bồi thường 31.943.000đồng trị giá tài dản theo kết luận giám định, bị cáo đồng ý bồi thường. Hội đồng xét xử chấp nhận và buộc bị cáo có nghĩa vụ bồi thường số tiền 31.943.000đồng cho anh V.

[2.6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự và dân sự sơ thẩm

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lương Tiểu B phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 175, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Lương Tiểu B 01(một) năm 09 (chin) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/12/2019.

2. Về trách nhiệm dân sự: áp dụng Điều 584, 589 Bộ luật dân sự buộc bị cáo Lương Tiểu B bồi thường cho anh Nguyễn Phú V số tiền 31.943.000đồng.

3.Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Lương Tiểu B nộp 200.000đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm và 1.597.000đồng tiền án phí dân sự.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án, trường hợp người phải thi hành án chưa thi hành số tiền nêu trên thì phải chịu lãi suất theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo qui định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm, bị cáo, bị hại có mặt tại tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng được quyền kháng cáo trọng hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

305
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2020/HS-ST ngày 20/04/2020 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:16/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Hồ - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về