TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH - TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 16/2019/DS-ST NGÀY 14/05/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Ngày 14 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Thành, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 18/2019/TLST-DS ngày 07/01/2019 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2019/QĐXXST-DS ngày 08/4/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 126/2019/QĐST-DS ngày 24/4/2019 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty Tài chính V.
Địa chỉ: Tầng 2, số 9, phường 1, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền: Anh C, sinh năm 1993.
Địa chỉ: Số 48, phường Đ, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (Văn bản ủy quyền số 3483/UQTA-VH.18 ngày 30/7/2018).
- Bị đơn: Chị Vũ Thị K, sinh năm 1996.
Địa chỉ: Tổ 7, ấp C, xã Đ, huyện T, tỉnh Đồng Nai.
(Nguyên đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn vắng mặt không lý do)
NỘI DUNG VỤ ÁN
[1] Nguyên đơn Công ty Tài chính V do anh C làm đại diện trình bày:
Ngày 23/9/2016, Công ty Tài chính V và chị Vũ Thị K ký hợp đồng tín dụng số 20160928-500000-0064. Theo nội dung hợp đồng, Công ty Tài chính V cho chị Vũ Thị K vay số tiền 21.100.000đ, lãi suất 2,92%/tháng, thời hạn vay 36 tháng, mục đích vay để tiêu dùng cá nhân. Kể từ ngày Công ty Tài chính V giải ngân số tiền nói trên đến thời hạn chấm dứt hợp đồng, chị Vũ Thị K phải có trách nhiệm thanh toán số tiền gốc và lãi là 34.460.000đ. Sau khi nhận được khoản tiền vay, chị Vũ Thị K chỉ thanh toán được cho Công ty Tài chính V 01 lần với số tiền 979.000đ mặc dù Công ty đã nhiều lần nhắc nhở.
Do chị Vũ Thị K vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên Công ty Tài chính V khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân huyện Long Thành buộc chị Vũ Thị K phải thanh toán toàn bộ số nợ gốc và lãi theo thỏa thuận trong hợp đồng là 33.481.000đ.
[2] Bị đơn chị Vũ Thị K trình bày:
Ngày 23/9/2016, chị có ký với Công ty Tài chính V hợp đồng tín dụng số 20160928-500000-0064. Theo thỏa thuận trong hợp đồng, chị sẽ vay của Công ty Tài chính V số tiền 21.100.000đ, lãi suất 2,92%/tháng, thời hạn vay 36 tháng, mục đích vay tiêu dùng cá nhân. Tính cả gốc và lãi, chị sẽ phải thanh toán cho Công ty Tài chính V số tiền 34.460.000đ. Sau khi nhận được khoản tiền vay, chị đã thanh toán cho Công ty Tài chính V 03 tháng tiền lãi và gốc với số tiền khoảng 2.900.000đ, sau đó có người tên M nhận là người của Công ty Tài chính V hàng tháng đến thu tiền của chị nên chị đã đưa cho anh M số tiền 4.500.000đ, việc đưa tiền cho anh M chị không có giấy tờ gì và cũng không có chứng cứ gì chứng minh. Sau đó chị không liên lạc được với anh M nên chị không thanh toán tiền cho đến nay.
Công ty Tài chính V khởi kiện chị yêu cầu thanh toán số tiền còn lại thì chị đồng ý và đề nghị trừ khoản tiền chị đã thanh toán và đề nghị Công ty Tài chính V giảm khoản lãi cho chị vì hiện nay chị đang có con nhỏ, hoàn cảnh gia đình khó khăn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn chị Vũ Thị K đã được Tòa án nhân dân huyện Long Thành triệu tập hợp lệ để làm việc, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Vì vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đương sự theo quy định tại Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Về nội dung vụ án:
Công ty Tài chính V và chị Vũ Thị K ký hợp đồng tín dụng số 20160928- 500000-0064 ngày 23/9/2016. Theo nội dung hợp đồng, Công ty Tài chính V cho chị Vũ Thị K vay số tiền 21.100.000đ, lãi suất 2,92%/tháng, thời hạn vay 36 tháng, mục đích vay để tiêu dùng cá nhân, chị Vũ Thị K phải có trách nhiệm thanh toán số tiền gốc và lãi trong thời gian 36 tháng là 34.460.000đ. Do chị K vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên Công ty Tài chính V khởi kiện đề nghị Tòa án buộc chị Vũ Thị K phải có nghĩa vụ thanh toán số tiền gốc và lãi còn nợ là 33.481.000đ. Chị Vũ Thị K cho rằng đã thanh toán cho nhân viên của Công ty Tài chính V số tiền 7.400.000đ.
Xét thấy, căn cứ hợp đồng tín dụng số 20160928-5000000-0064 ngày 23/9/2016, Công ty Tài chính V đã cho chị Vũ Thị K vay số tiền 21.100.000đ, trong thời hạn 36 tháng, chị K phải có nghĩa vụ thanh toán cho Công ty Tài chính V số tiền gốc và lãi là 34.460.000đ. Chị K cho rằng đã thanh toán cho Công ty Tài chính V nhưng không có chứng cứ gì chứng minh, mặt khác, Tòa án đã triệu tập chị hợp lệ để làm rõ vấn đề này nhưng chị vẫn vắng mặt không có lý do nên không có cơ sở xem xét số tiền chị cho rằng đã thanh toán. Do chị Vũ Thị K vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng số 20160928- 5000000-0064 ngày 23/9/2016 nên cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Tài chính V, buộc chị Vũ Thị K phải có trách nhiệm thanh toán cho Công ty Tài chính V số tiền còn lại theo thỏa thuận của hợp đồng là 33.481.000đ. Trong đó, nợ gốc là 20.789.445đ nợ lãi là 12.691.555đ.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, chị Vũ Thị K còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán hết khoản nợ gốc. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời điểm của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo Quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.
[3] Về án phí: Chị Vũ Thị K phải chịu 1.674.050đ án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho Công ty Tài chính V số tiền tạm ứng án phí đã nộp 835.000đ theo biên lai thu số 0001062 ngày 02/01/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Thành.
[4] Ý kiến đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán và Hội đồng xét xử khi tiến hành tố tụng đúng quy định của Pháp luật tố tụng dân sự. Việc thu thập chứng cứ đầy đủ, khách quan, thời hạn tố tụng được đảm bảo và các văn bản tố tụng được tống đạt hợp lệ. Phiên tòa được thực hiện dân chủ, bình đẳng. Bị đơn chưa thực hiện tốt việc tuân theo pháp luật. Về nội dung vụ án: Chị Vũ Thị K ký hợp đồng tín dụng với Công ty Tài chính V vay số tiền 21.000.000đ để tiêu dùng cá nhân, thời gian vay 36 tháng, tổng số tiền chị K phải thanh toán trong 36 tháng cả gốc và lãi là 34.460.000đ. Do chị K đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo thỏa thuận trong hợp đồng nên đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn chị Vũ Thị K phải có nghĩa vụ thanh toán số tiền còn lại của hợp đồng tín dụng là 33.481.000đ.
Ý kiến và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về nội dung vụ án là phù hợp nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 26, Điều 35, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Áp dụng Điều 463, Điều 466, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Tài chính V đối với chị Vũ Thị K về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”.
Buộc chị Vũ Thị K phải có nghĩa vụ trả cho Công ty Tài chính V số tiền 33.481.000đ. Trong đó, nợ gốc là 20.789.445đ nợ lãi là 12.691.555đ.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, chị Vũ Thị K còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán hết khoản nợ gốc. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời điểm của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo Quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.
2. Về án phí: Chị Vũ Thị K phải chịu 1.674.050đ án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho Công ty Tài chính V số tiền tạm ứng án phí đã nộp 835.000đ theo biên lai thu số 0001062 ngày 02/01/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Thành.
Công ty Tài chính V được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Chị Vũ Thị K có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 16/2019/DS-ST ngày 14/05/2019 về tranh chấp hợp đồng tín dụng
Số hiệu: | 16/2019/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 14/05/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về