Bản án 157/2019/HS-ST ngày 12/12/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ - TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 157/2019/HS-ST NGÀY 12/12/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 12 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 152/2019/TLST-HS ngày 26/11/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 159/2019/QĐXXST-HS ngày 29/11/2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T, sinh năm 1988 tại Hà Nam; nơi ĐKHKTT, chỗ ở: Thôn T, xã B, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 03/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn O và bà Bùi Thị T; vợ, con: Chưa có; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 08/02/2018 Công an phường Hai Bà Trưng, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xử phạt hành chính phạt tiền 750.000 đồng về hành vi: “Sử dụng trái phép chất ma túy” (Nguyễn Văn T chưa chấp hành); nhân thân: Ngày 12/6/2012 Chủ tịch UBND huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc, thời hạn 24 tháng; bị bắt, tạm giữ ngày 11/10/2019, tạm giam từ ngày 17/10/2019 đến nay; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Nguyễn Văn O, sinh năm 1964; trú tại: Thôn T, xã B, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam; có mặt.

- Người làm chứng: Anh Đặng Anh D, sinh năm 1971; địa chỉ: Tổ M, phường L, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ ngày 11/10/2019, Nguyễn Văn T mượn xe môtô BKS: 90B1- 781... của ông Nguyễn Văn O (bố đẻ T) rồi cất giấu vào trong cốp xe 01 túi nilon bên trong có chứa 01 gói ma túy, 01 bơm kim tiêm và 01 ống Novocaine. Sau đó, T điều khiển xe môtô đi đến khu vực đường Lý Thường Kiệt, phường Lê Hồng Phong, thành phố Phủ Lý, tại đây T gặp bạn nghiện mới quen khoảng 40 tuổi tự giới thiệu tên là Chung (T không biết rõ tên tuổi, địa chỉ), người đó hỏi T: “Có chỗ nào bán đồ không, lấy cái chơi”, T hiểu ý người đó hỏi tìm mua ma túy để cùng sử dụng nên trả lời:“Có”, thấy T nói vậy người này đưa cho T 500.000 đồng. T điều khiển xe môtô đi đến khu vực cầu Gừng thuộc xã Thanh Hà, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam gặp một người thanh niên (không rõ lai lịch, địa chỉ) đã bán ma túy cho T ngày 09/10/2019, T nói với người này: “Anh để cho em quả bốn trăm” rồi lấy 400.000 đồng đưa cho người thanh niên và được người đó đưa lại 01 gói giấy bạc màu vàng. Biết đó là gói ma túy, T liền cầm giữ ở tay trái rồi đi đến chỗ hẹn để gặp Chung. Chung cầm gói ma túy T vừa mua được chia thành hai gói, Chung đưa cho T cầm một gói rồi bỏ đi. T bỏ gói ma túy vào vỏ bao thuốc lá Thăng Long, cất vào túi quần rồi đi tìm nơi để sử dụng thì bị lực lượng Công an phường Lê Hồng Phong, thành phố Phủ Lý phát hiện nghi vấn nên yêu cầu kiểm tra. Tại chỗ, T tự giác lấy từ trong túi quần giao nộp cho lực lượng Công an 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long, bên trong có 01 gói giấy bạc màu vàng chứa chất bột màu trắng dạng cục và khai nhận đó là ma túy, cất giấu mục đích để sử dụng.

Vật chứng, tài sản thu giữ của vụ án gồm: 01 gói giấy bạc màu vàng thu giữ trong túi quần của Nguyễn Văn T và 01 gói giấy bạc màu vàng thu giữ trong cốp xe môtô, bên trong cả hai gói đều chứa chất bột màu trắng dạng cục được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01; 01 vỏ bao thuốc lá thăng Long màu vàng; 01 ống kim tiêm loại 03ml; 01 ống nước novocaine 3%; 01 túi nilon màu trắng; 01 điện thoại di động Mobell M228 màu đen và 01 xe môtô Honda màu đen, BKS: 90B1-781.94.

Tại bản Kết luận giám định số 175/PC09-MT ngày 15/10/2019, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận: “Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,144 gam, loại Heroine”.

Bản cáo trạng số 154/CT-VKSPL ngày 26/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố Nguyễn Văn T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý thực hành quyền công tố giữ nguyên quan điểm không thay đổi, bổ sung về nội dung đã truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn T, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự:

- Xử phạt Nguyễn Văn T từ 24 tháng đến 30 tháng tù.

- Xử lý vật chứng của vụ án theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được Cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Lời khai của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa, phù hợp với các chứng cứ của vụ án như biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng, kết luận giám định về chất ma túy, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, lý lịch tư pháp của bị cáo và các tài liệu khác có trong hồ sơ của vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 07 giờ 45 phút ngày 11/10/2019, tại khu vực đường Lý Thường Kiệt thuộc tổ 4, phường Lê Hồng Phong, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, Nguyễn Văn T bị lực lượng Công an phường Lê Hồng Phong, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam bắt giữ quả tang đang cất giấu trái phép 0,144 gam Heroine, mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhân thân xấu, có 01 tiền sự do bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” (chưa chấp hành), bản thân là người nghiện ma túy và đã từng bị đưa đi cai nghiện bắt buộc.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên sẽ được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. [5] Về hình phạt:

Hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, mức độ rất nghiêm trọng, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy và các chất gây nghiện trực tiếp là các hoạt động cất giữ, tàng trữ chất ma túy, gây mất trật tự, an toàn cho xã hội, làm nảy sinh tệ nạn ma túy là mầm mống, nguyên nhân phát sinh các tội phạm khác. Vì vậy, cần có mức án thật nghiêm minh, tương xứng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm bị cáo đã thực hiện và nhân thân xấu của bị cáo mới có tác dụng răn đe, giáo dục đối với bị cáo đồng thời nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm.

Hình phạt bổ sung: Do bị cáo là người nghiện ma túy, nghề nghiệp, thu nhập không ổn định và không có tài sản riêng nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung (như phạt tiền, tịch thu tài sản…) đối với bị cáo.

[6] Đối với người thanh niên theo lời khai của bị cáo khoảng 40 tuổi, ở khu vực cầu Gừng, thôn Mậu Chử, xã Thanh Hà, huyện Thanh Liêm là người đã bán ma túy cho bị cáo; người thanh niên tên Chung gặp ở khu vực đưng Lý Thường Kiệt, phường Lê Hồng Phong, thành phố Phủ Lý là người đã đưa tiền cho bị cáo đi mua ma túy, do Cơ quan điều tra không xác định được đặc điểm nhân thân, địa chỉ của những người này nên chưa có cơ sở để xem xét, xử lý là có căn cứ.

[7] Về vật chứng và xử lý vật chứng đã thu giữ:

- Đối với toàn bộ số Heroine hoàn trả sau giám định cùng bao gói, ng bơm kim tiêm, ống Novocaine, vỏ bao thuốc lá Thăng Long và túi nilon thu giữ trong vụ án là vật cấm tàng trữ và không có giá trị sử dụng sẽ tịch thu, tiêu hủy.

- Đối với chiếc điện thoại di động Mobell thu giữ của bị cáo, quá trình điều tra đã xác định đó là tài sản hợp pháp của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội trong vụ án nay sẽ trả lại cho bị cáo.

- Đối với chiếc xe môtô BKS: 90B1-781.94, quá trình điều tra đã xác định là tài sản hợp pháp của ông Nguyễn Văn O (bố đẻ bị cáo), khi cho Nguyễn Văn T mượn xe, ông O không biết mục đích bị cáo sử dụng xe để làm phương tiện phạm tội nên nay sẽ trả lại tài sản này cho ông O.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thực hiện quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 và Điều 50 Bộ luật hình sự:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo 24 (hai bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11/10/2019.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) phong bì đã niêm phong mặt trước ghi: “Mẫu vật hoàn trả QT01”, số 175/PC09-MT có chữ ký và dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam; 01(mt) vỏ bao thuốc lá thăng Long, màu vàng; 01 (một) ống bơm kim tiêm loại 03ml; 01 (mt) ống Novocaine 3% và 01 (mt) túi nilon màu trắng.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn T 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Mobell-M228, vỏ màu đen xanh, số IMEI1: 810033600705314, số IMEI2: 810034600705314, điện thoại cũ đã qua sử dụng.

- Trả lại cho ông Nguyễn Văn O 01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA, màu đen, biển kiểm soát: 90B1-781.., số máy: JC52E-1322322; số khung: RLHJC5260DY105705.

Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý ngày 28/11/2019.

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Danh mục án phí, lệ phí Tòa án theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Nguyễn Văn T nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

282
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 157/2019/HS-ST ngày 12/12/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:157/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về