TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH TRÌ, TP. HÀ NỘI
BẢN ÁN 152/2018/HSST NGÀY 28/09/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 28 tháng 9 năm 2018, Tại trụ Tòa án nhân dân huyện T, thành phố Hà Nội. Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 153/2018/HSST ngày 6/9/2018 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Văn Đ sinh năm: 1987 Nơi đăng ký hộ khẩu và chỗ ở: Đội 6, thôn N, xã T, huyện T, thành phố Hà Nội, Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn Hoá: 11/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn Giáo: không; Con ông: Chu Quốc T, Con bà: Nguyễn Thị D. Gia đình có 3 anh em, bị cáo là con thứ ba. Có vợ là Trình Thị T sinh năm 1980, có 02 con, con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2013. Danh chỉ bản số 0259 ngày 31/5/2018 Công an huyện T lập. Tiền án, không, tiền sự: không. Bị bắt quả tang và tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/5/2018 hiện đang bị tạm giam ở trại giam số 2 - Công an Thành phố Hà Nội. Có mặt tại phiên toà.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau.
Khoảng 02 giờ ngày 30/5/2018, Nguyễn Văn Đ đi xe taxi từ nhà ra khu vực Cầu D, xã T, huyện T, thành phố Hà Nội để ăn đêm. Khi đến nơi do các quán ăn đã đóng cửa nên Đ lại bắt taxi để đi về thì gặp một nam thanh niên không quen biết hỏi Đ có mua ma tuý đá không. Đ hỏi "giá bao nhiêu " thì người nam thanh niên đó nói " ở đây có 4 gói, mỗi gói giá 200.000đồng, lấy cả 4 gói thì giá là 500.000đồng ". Đ đưa cho nam thanh niên trên 500.000đồng và nhận của người này 04 gói đồng thời cất số ma tuý mua được vào túi quần phía trước bên phải và tiếp tục đứng đợi để bắt taxi. Do không bắt được xe taxi nên Đô gọi điện thoại cho Nguyễn Đình N đi xe mô tô Honda BKS: 29N1- 291.86 đến khu vực Cầu D và chở Đ cùng đi về.
Hồi 03 giờ ngày 30/5/2018 tổ công tác đội Nghi lễ PK 20 - Công an Thành phố Hà Nội làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát tại khu vực ngõ 14, đường T, huyện T, Hà Nội phát hiện Nguyễn Đình N điều khiển xe mô tô Honda BKS 29 N1- 291.86 chở Nguyễn Văn Đ có biểu hiện nghi vấn nên đã ra hiệu lệnh dừng xe để kiểm tra. Khi kiểm tra Nguyễn Đình N tổ công tác không phát hiện thu giữ gì. Quá trình kiểm tra Nguyễn Văn Đ tổ công tác phát hiện trong túi quần phía trước bên phải của Đ có 04 túi ni long trên là ma tuý đá nên Tổ công tác đã phối hợp với Đồn Công an Cầu Bươu: lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ tang vật. Ngoài ra, Tổ công tác còn tạm giữ của Nguyễn Đình N 01 xe mô tô Honda BKS 29 N1- 291.86 (số khung: 013426, số máy: 5013695).
Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Thanh T đã trưng cầu giám định đối với 04 túi nilong chứa tinh thể màu trắng thu giữ của Nguyễn Văn Đ.
Tại bản Kết luận giám định số 5141 ngày 07/6/2018 của Phòng KTHS - Công an thành phố Hà Nội đã kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 04 túi nilong đều là ma tuý loại Methaphetamine, tổng khối lượng: 0,688gam. Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện T 0,622gam Methaphetamine.
Đối với người đàn ông đã bán ma tuý cho Đ, Đ khai không biết tên, tuổi địa chỉ của người đàn ông này nên không có căn cứ để xác minh làm rõ.
Đối với Nguyễn Đình N, do N không biết Đ cất dấu ma tuý trong người nên Cơ quan điều tra không xử lý gì đối với N là có căn cứ. Đối với chiếc xe mô tô Honda BKS: 29N1- 291.86 (số khung: 013426, số máy: 5013695) qua điều tra xác minh chưa xác định được chủ sở hữu của xe nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện T đã ra Quyết định tách phần tài liệu liên quan đến chiếc xe trên để điều tra, xác minh, xử lý sau.
Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Văn Đ đã khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên, mục đích của Đ mua số ma tuý trên để sử dụng dần cho bản thân, việc Đ mua ma tuý và cất dấu ma tuý trong người N không biết và Đ không nói cho N biết. Lời khai của Đ phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác do Cơ quan điều tra thu thập được.
Tại bản cáo trạng: số 141/ CT-VKS TT ngày 04/9/2018,Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố Nguyễn Văn Đ về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo Điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.
Tại phiên toà: Bị cáo khai nhận như đã khai tại cơ quan điều tra Nguyễn Văn Đ thừa nhận nội dung Bản cáo trạng là đúng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện. Bị cáo thấy được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, thành khẩn ăn năn hối cải, hứa sẽ sửa chữa và đề nghị Tòa xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Văn Đ về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo khoản 1 điều 249 - Bộ luật hình sự năm 2015, như nội dung Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện T.
Đề nghị Tòa xử phạt Nguyễn Văn Đ từ 12 (mười hai) đến 18 (mười tám) tháng tù giam.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về vật chứng: Đề nghị Tòa tịch thu tiêu hủy 04 gói Methaphetamine có khối lượng 0,622gam , sau khi đã giám định.
Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; Căn cứ kết quả thẩm tra chứng cứ và xét hỏi tại phiên toà; Căn cứ vào kết quả tranh luận công khai tại phiên toà. Trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Hồi 03 giờ ngày 30/5/2018, tại khu vực ngõ 14, đường T, huyện T, thành phố Hà Nội khi Nguyễn Văn Đ tàng trữ 04 gói Methaphetamine có tổng khối lượng 0,688 gam để sử dụng thì bị tổ công tác Đội Nghi Lễ - Phòng PK 20E - Công an thành phố Hà Nội phối hợp với Đồn công an Cầu B - Công an huyện T bắt quả tang, thu giữ tang vật. Đối chiếu pháp luật Nguyễn Văn Đ đã phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" được quy định tại khoản 1 Điều 249 - Bộ luật hình sự năm 2015. Viện kiểm sát truy tố bị cáo ra xét xử theo tội danh và điều luật đã viện dẫn là có cơ sở pháp lý.
[2] Như vậy hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của Nguyễn Văn Đ đã phạm vào tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" được quy định tại khoản 1 Điều 249 - Bộ luật hình sự năm 2015. Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố bị cáo ra xét xử theo tội danh và điều luật đã viện dẫn ở trên là có căn cứ pháp lý. Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước. Do tính chất nghiêm trọng của vụ án, cần thiết phải xử lý bằng pháp luật hình sự [3] Về tình tiết tăng nặng: Trong vụ án này bị cáo không có.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, khai báo thành khẩn và tỏ ra ăn năn hối cải được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 - bộ luật hình sự năm 2015 Bị cáo nhận thức được tác hại của ma tuý, nhưng coi thường pháp luật, do đó cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian, để cải tạo giáo dục đối với bị cáo, mới có tác dụng đấu tranh phòng ngừa tội phạm.
Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người không có việc làm thu nhập ổn định và áp dụng hình phạt tù, do vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về vật chứng: Cơ quan điều tra đã thu giữ 04 gói Methaphetamine có khối lượng 0,622gam sau khi đã giám định.
Xét thấy số Methaphetamine đã thu giữ là chất độc hại cấm lưu hành không có giá trị cần tịch thu tiêu hủy.
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo Điều 136 Bộ luật hình sự năm 2015.
Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" Áp dụng Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, Điều 51, - Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt:Nguyễn Văn Đ 15 (mƣời lăm ) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt quả tang và tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/5/2018.
Về vật chứng: căn cứ điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu huỷ 04gói Methaphetamine có khối lượng 0,622 gam ( Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện T đã thu giữ 0,688 gam Methaphetamine. Sau khi giám định 0,066gam đã trả lại cho Công an huyện Thanh Trì 0,622 gam Methaphetamine).
Án phí: áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Điều 20, 22, 26 Pháp lệnh án phí, lệ phí Toà án.
Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Về quyền thi hành án: Căn cứ Điều 26 Luật thi hành án hình sự.
Trường hợp bản án, quyết định của Toà án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 152/2018/HSST ngày 28/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 152/2018/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thanh Trì - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/09/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về