TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN
BẢN ÁN 151/2019/HS-ST NGÀY 18/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 18 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 142/2019/HSST ngày 27 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 146/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:
Lê Quốc P (tên gọi khác: Không), sinh ngày 14 tháng 11 năm 1984 tại B, tỉnh Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn T, xã X, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; chỗ ở: Tổ 4, khu G, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lê Duy M, sinh năm 1947 và con bà Trần Thị Minh Ch, sinh năm 1948 (đã chết); vợ: Lưu Thu P1, sinh năm 1991; con: có 02 con, lớn sinh 2012, nhỏ sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: không có ; nhân thân: Ngày 17/4/2012 vận chuyển lâm sản trái pháp luật, Công an huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 15.000.000 đồng; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 14/5/2019 đến nay. Có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Chị Lưu Thu P1; địa chỉ: Tổ 4, khu G, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn, có mặt;
2. Nguyễn Thanh H1, sinh năm 1978; địa chỉ: Số nhà 58, khu K, thị trấn B, tỉnh Lạng Sơn, có mặt;
- Người làm chứng:
1. Anh Nguyễn Trọng H2, vắng mặt;
2. Anh Vy Văn T1, có mặt;
3. Chị Nguyễn Thùy L, vắng mặt;
4. Chị Lý Thị Thanh Th1, vắng mặt;
5. Chị Trần Thị Mỹ L1, vắng mặt;
6. Chị Huỳnh Thị Ngọc D1, vắng mặt;
7. Chị Lâm Thúy H1, vắng mặt;
- Người chứng kiến:
1. Ông Nguyễn Đình Th2, vắng mặt;
2. Ông Lê Việt Th3, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 23 giờ 30 phút ngày 13/5/2019, nhận được tin báo của quản lý khách sạn V1 Lạng Sơn về việc có một nhóm khách có biểu hiện sử dụng trái phép chất ma túy. Tổ công tác Công an thành phố Lạng Sơn tiến hành kiểm tra phòng 1902, 1904 của khách sạn V1 Lạng Sơn, thuộc phường C1, thành phố Lạng Sơn, phát hiện 09 đối tượng có dấu hiệu sử dụng trái phép chất ma túy gồm: Nguyễn Trọng H2, Vy Văn T1, Nguyễn Thanh H1, Lê Quốc P, Nguyễn Thùy L, Lý Thị Thanh Th1, Trần Thị Mỹ L1, Huỳnh Thị Ngọc D1 và Lâm Thúy H1. Thu giữ tại phòng 1904: 02 đĩa sứ hình tròn, thu giữ tại ngăn kéo kệ gỗ trong phòng 1902: 01 túi nilon màu vàng dán kín hai đầu kích thước 5,3x11,8cm, bên trong có chất bột màu trắng xanh. Tiến hành kiểm tra xe ôtô nhãn hiệu MAZDA CX5, màu trắng, biển kiểm soát 12A-09493 của Lê Quốc P đỗ tại tầng hầm khách sạn V1 thu giữ tại khe cửa sổ trời của ô tô: 02 túi nilon màu vàng dán kín hai đầu kích thước 5,3x11,8cm bên trong có chất bột màu trắng xanh, 01 viên nén màu xanh được cất giấu trong ví da để trên hộp cần số tự động của xe ô tô. Tổ công tác tiến hành lập biên bản sự việc đối với các đối tượng nêu trên.
Tại Bản kết luận giám định số 179/KL-PC09, ngày 18/5/2019 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận:
Chất bột màu trắng xanh có trong 03 túi nilon màu vàng, 01 viên nén màu xanh thu giữ tại phòng 1902 và trên xe ôtô biển kiểm soát 12A-09493 của Lê Quốc P đều là chất ma túy MDMA, có tổng khối lượng 4,623 gam.
Quá trình điều tra Lê Quốc P khai nhận: Ngày 11/5/2019 Lê Quốc P đến khu vực Ngã 6, phường Tam Thanh, thành phố Lạng Sơn mua 04 gói ma túy trà giá 4.800.000 đồng với người đàn ông tên Cường (Lê Quốc P không biết tên, địa chỉ cụ thể), Lê Quốc P cất giấu ma túy mua được tại quán Massage Alibaba ở thôn Thâm M, xã X, huyện C, tỉnh Lạng Sơn. Ngày 12/5/2019 Nguyễn Trọng H2, Vy Văn T1 cùng với Nguyễn Thùy L, Lý Thị Thanh Th1 (là bạn của Lê Quốc P ở thị trấn B) đến thành phố Lạng Sơn chơi và nhờ Lê Quốc P thuê phòng khách sạn, Lê Quốc P thuê 02 phòng tại khách sạn V1 Lạng Sơn để nhóm bạn Lê Quốc P ở lại. Ngày 13/5/2019 Lê Quốc P về quán Massage A lấy 04 gói ma túy trà cất giấu trên xe ô tô biển kiểm soát 12A-09493 đi đến khách sạn V1 Lạng Sơn để chơi cùng nhóm bạn đã thuê phòng ngày hôm trước, khi đến do Vy Văn T1 chưa về phòng, Lê Quốc P đợi nhóm bạn ở ngoài và lấy 02 gói ma túy trà cất giấu trong người, khoảng 10 phút sau có Vy Văn T1, Lâm Thúy H1, Lý Thị Thanh Th1, Nguyễn Thùy L, Trần Thị Mỹ L1 về đến phòng, Tùng mở cửa phòng 1902, 1904 (hai phòng thiết kế thông nhau) để cả nhóm vào ngồi chơi, khi cả nhóm đang nói chuyện, Lê Quốc P lấy 01 gói ma túy trà pha vào nước nóng rồi đổ thêm nước ngọt có sẵn tại khách sạn mời mọi người trong phòng sử dụng, gói ma túy trà còn lại Lê Quốc P cất giấu vào ngăn kéo kệ ở đầu giường.
Khoảng 22 giờ cùng ngày có Nguyễn Thanh H1, Nguyễn Trọng H2 đến phòng 1902 và 1904 khách sạn chơi và sử dụng ma túy cùng nhóm của Lê Quốc P, Nguyễn Trọng H2 lấy 01 gói ma túy Ke đổ ra đĩa cùng cả nhóm sử dụng hết, trong lúc cả nhóm đang nghe nhạc và sử dụng ma túy tại phòng khách sạn thì bị lực lượng Công an kiểm tra, phát hiện thu giữ ma túy còn lại. Về nguồn gốc 01 viên nén màu xanh thu giữ trong ví da trên xe ôtô biển kiểm soát 12A-09493, Lê Quốc P khai nhận 01 viên nén là ma túy tổng hợp, Lê Quốc P được một người bạn cho để sử dụng, do thời gian đã lâu nên Lê Quốc P không nhớ ai là người đưa.
Tại cơ quan điều tra Lê Quốc P đã thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân.
Tại phiên tòa bị cáo Lê Quốc P khai nhận: Ngày 13/5/2019 tổ công tác Công an thành phố Lạng Sơn kiểm tra phòng 1902 và 1904 của khách sạn V1 Lạng Sơn, thuộc phường C1, thành phố Lạng Sơn, phát hiện bị cáo và nguyễn Trọng H2, Vy Văn T1, Nguyễn Thanh H1, Nguyễn Thùy L, Lý Thị Thanh Th1, Trần Thị Mỹ L1, Huỳnh Thị Ngọc D1, Lâm Thúy H1 có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, qua khám xét đã thu giữ 4,623 gam chất ma túy MDMA bị cáo tàng trữ mục đích để sử dụng.
Tại phiên tòa chị Lưu Thu P1 trình bày: Vợ chồng chị có chiếc xe ôtô nhãn hiệu MAZDA CX5, màu trắng, biển kiểm soát 12A - 09493 đứng tên đăng ký là Lê Quốc P, ngày 13/5/2019 chồng chị sử dụng chiếc xe và bị Công an bắt về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Chiếc xe ôtô là tài sản chung của vợ chồng chị mua vào tháng 4/2018, vợ chồng cùng sử dụng chung, là phương tiện duy nhất của gia đình, hiện chiếc xe đang thế chấp để vay vốn tại Ngân hàng Sacombank. Chị không biết việc Lê Quốc P sử dụng xe, có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, chị đề nghị được xin lại chiếc xe để sử dụng.
Tại phiên tòa anh Nguyễn Thanh H1 trình bày: Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 13/5/2019, anh có gọi điện cho Lê Quốc P hỏi đang ở đâu, Lê Quốc P nói đang ở Viperl Lạng Sơn. Anh bảo là anh xuống nhé, Lê Quốc P đồng ý và dặn một mình anh xuống. Sau đó anh gọi taxi và đến khách sạn Viperl Lạng Sơn, khi đến tiền sảnh anh gọi cho Lê Quốc P xuống đón lên phòng, vào phòng anh thấy có đèn nháy, mở nhạc sàn, có khoảng 7 người cả nam và nữ. Bản thân anh có được sử dụng ma túy. Sau đó bị lực lượng Công an kiểm tra, anh bị thu giữ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu HUA WEI màu đen đã vỡ màn hình, số IMEI1: 868009037054436; số IMEI2: 868009037070440 (đã qua sử dụng); 01 (một) túi sách giả da màu nâu, có dây đeo màu đen (đã qua sử dụng); 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu GOLY, màu đen, số IMEI0: 353938080333754; số IMEI1: 353938080333762 (đã qua sử dụng) và số tiền 7.000.000 đồng. Số tiền và tài sản bị thu giữ không liên quan đến việc phạm tội, anh đề nghị được xin lại.
Người làm chứng, tại cơ quan điều tra anh Nguyễn Trọng H2, chị Nguyễn Thùy L, chị Lý Thị Thanh Th1, chị Trần Thị Mỹ L1, chị Huỳnh Thị Ngọc D1, chị Lâm Thúy H1; tại phiên tòa anh Vy Văn T1 đều khai nhận: Ngày 13/5/2019 có đến phòng 1902 và 1904 chơi và sử dụng ma túy tại đây, trong lúc sử dụng ma túy thấy Lê Quốc P là người pha ma túy trà và Nguyễn Trọng H2 là người lấy ma túy ke ra để mọi người cùng sử dụng. Sau đó bị lực lượng Công an kiểm tra phát hiện và đã bị Công an thành phố Lạng Sơn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép ma túy.
Tại bản Cáo trạng số 145/CT-VKS, ngày 27/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố Lê Quốc P về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lê Quốc P phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Áp dụng điểm c khoản 1, 5 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo mức án từ 15 tháng đến 18 tháng tù;
Áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo số tiền 10.000.000 đồng;
Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu để tiêu hủy 03 (ba) phong bì niêm phong đựng mẫu vật (chất ma túy) sau giám định là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành và 02 (hai) đĩa sứ màu trắng hình tròn.
Trả lại cho bị cáo Lê Quốc P gồm: 01 (một) ví giả da cầm tay màu đen, kích thước 5,5x16x24cm bên ngoài có chữ 'LV' (đã qua sử dụng); 01 (một) giấy chứng minh thư nhân dân số 081034165 mang tên Lê Quốc P; 01 (một) loa dạng hình hộp chữ nhật màu xám kích thước 13x18,5x22cm, có dây cầm tay giả da màu xám; 01 (một) đèn chiếu Laze bằng sắt màu đen, trên mặt có chữ 'LASER SHOW SYSTEM'; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu HUA WEI màu xanh - đen số IMEI1: 869425033825695; số IMEI2:869425033835702 (đã qua sử dụng); 01 (một) thẻ ATM ngân hàng BIDV mang tên Lê Quốc P; 01 (một) thẻ ATM ngân hàng Agribank mang tên Lê Quốc P; 01 (một) thẻ ATM ngân hàng Sacombank mang tên Lê Quốc P; 01 (một) thẻ ATM ngân hàng Techombank mang tên Lê Quốc P; 01 (một) thẻ ATM ngân hàng Techombank mang tên Hoàng Trung N và số tiền 9.950.000 đồng, đối với số tiền cần tạm giữ để đảm bảo cho việc thi hành án.
Trả lại cho Nguyễn Thanh H1: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu HUA WEI màu đen đã vỡ màn hình, số IMEI1: 868009037054436; số IMEI2: 868009037070440 (đã qua sử dụng); 01 (một) túi sách giả da màu nâu, có dây đeo màu đen (đã qua sử dụng); 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu GOLY, màu đen, số IMEI0: 353938080333754; số IMEI1: 353938080333762 (đã qua sử dụng) và số tiền 7.000.000 đồng.
Trả lại cho chị Lưu Thu P1: 01 (một) xe ôtô nhãn hiệu MAZDA CX5, màu trắng, BKS: 12A-094.93, số máy: PE21063185; số khung 5726J083771 (đã qua sử dụng); 01 (một) thẻ ATM ngân hàng Techombank mang tên Lưu Thu P1; 01 (một) thẻ ATM ngân hàng Sacombank mang tên Lưu Thu P1;
Tịch thu để sung để hóa giá sung Ngân sách nhà nước: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE màu trắng vàng, đã vỡ màn hình, số IMEI1: 353802083452443 (đã qua sử dụng);
Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn. Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa bị cáo Lê Quốc P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như Cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với biên bản sự việc lập ngày 13/5/2019, vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn và phù hợp với các lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai người làm chứng và các tài liệu khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lê Quốc P phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo Lê Quốc P theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[2] Hành vi của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, ma tuý là chất gây nghiện, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của con người, nền kinh tế của đất nước, hành vi đó gây mất trật tự an ninh tại địa phương, bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy và biết việc tàng trữ chất ma túy là trái phép bị pháp luật ngăn cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện. Do đó, đối với hành vi của bị cáo cần phải được xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật để nhằm răn đe giáo dục và phòng ngừa chung.
[3] Ngoài việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội nêu trên cần xem xét những yếu tố liên quan đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và các yếu tố khác có liên quan của bị cáo, trên cơ sở xem xét lời đề nghị, luận tội của Viện kiểm sát.
[4] Xét về nhân thân, tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Lê Quốc P là người đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự; Tại cơ quan Điều tra và tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo có tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; trong gia đình bị cáo có bố là ông Lê Duy Mậu được Nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến sỹ vẻ vang hạng 2 và hạng 3 nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Tình tiết tăng nặng: Không có .
[5] Xét lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, mức hình phạt cũng như tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng giảm nhẹ, nhân thân, bồi thường dân sự, hướng xử lý vật chứng, Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc xem xét khi quyết định.
[6] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, bị cáo có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích để sử dụng, bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng, khi lượng hình Hội đồng xét xử sẽ xem xét giảm nhẹ phần nào hình phạt cho bị cáo. Qua xác minh, theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời khai của bị cáo tại phiên tòa, thấy rằng bị cáo có tài sản vì vậy cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, nhằm xử lý nghiêm trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, phạt bổ sung bị cáo số tiền 10.000.000 đồng để sung Ngân sách nhà nước.
[7] Về xử lý vật chứng: 03 (ba) phong bì niêm phong, bên trong đựng mẫu vật sau giám định, là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành; 02 (hai) đĩa sứ hình tròn, màu trắng, cần tịch thu để tiêu hủy;
[8] Đối với 01 (một) xe ôtô nhãn hiệu MAZDA CX5, màu trắng, BKS: 12A-094.93, số máy: PE21063185; số khung 5726J083771 (đã qua sử dụng); 01 (một) ví giả da cầm tay màu đen, kích thước 5,5x16x24cm bên ngoài có chữ 'LV' (đã qua sử dụng); 01 (một) túi sách giả da màu nâu, có dây đeo màu đen (đã qua sử dụng); 01 (một) giấy chứng minh thư nhân dân số 081034165 mang tên Lê Quốc P; 01 (một) loa dạng hình hộp chữ nhật màu xám kích thước 13x18,5x22cm, có dây cầm tay giả da màu xám; 01 (một) đèn chiếu Laze bằng sắt màu đen, trên mặt có chữ 'LASER SHOW SYSTEM'; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu HUA WEI màu đen đã vỡ màn hình, số IMEI1: 868009037054436; số IMEI2: 868009037070440 (đã qua sử dụng); 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu HUA WEI màu xanh -đen số IMEI1: 869425033825695; số IMEI2:869425033835702 (đã qua sử dụng 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu GOLY, màu đen, số IMEI0: 353938080333754; số IMEI1: 353938080333762 (đã qua sử dụng); 01 (một) thẻ ATM ngân hàng BIDV mang tên Lê Quốc P; 01 (một) thẻ ATM ngân hàng Agribank mang tên Lê Quốc P; 01 (một) thẻ ATM ngân hàng Sacombank mang tên Lê Quốc P; 01 (một) thẻ ATM ngân hàng Techombank mang tên Lê Quốc P; 01 (một) thẻ ATM ngân hàng Techombank mang tên Lưu Thu P1; 01 (một) thẻ ATM ngân hàng Sacombank mang tên Lưu Thu P1; 01 (một) thẻ ATM ngân hàng Techombank mang tên Hoàng Trung N; số tiền 9.950.000 đồng thu giữ của bị cáo Lê Quốc P; Số tiền 7.000.000 đồng thu giữ của Lê Thanh Hải. Đối với chiếc xe ôtô nhãn hiệu MAZDA CX5, màu trắng, BKS: 12A-094.93, xác định là tài sản thuộc sở hữu chung của chị Lưu Thu P1 và Lê Quốc P, hiện chiếc xe đang thế chấp tại Ngân hàng Sacombank, chị Lưu Thu P1 không biết Lê Quốc P sử dụng xe vào việc phạm tội. Trả lại chiếc xe ôtô cho chị Lưu Thu P1 sử dụng, đồng thời đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho Ngân hàng. Đối với tiền và tài sản thu giữ của Nguyễn Thanh H1, xác định không liên quan đến việc phạm tội, trả lại chủ sở hữu. Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE màu trắng vàng, đã vỡ mà n hình, số IMEI1: 353802083452443 (đã qua sử dụng), thu giữ của Lê Quốc P xác định liên quan đến việc phạm tội, cần tịch thu để hóa giá sung Ngân sách Nhà nước..
[8] Đối với ma túy do Nguyễn Trọng H2 mang đến sử dụng, do các đối tượng đã sử dụng hết, Cơ quan điều tra không xác định được khối lượng, loại ma túy nên không đủ cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Nguyễn Trọng H2 về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Công an thành phố Lạng Sơn đã quyết định xử phạt vi phạm hành đối với Nguyễn Trọng H2.
[9] Đối với đối tượng bán ma túy tên Cường tại khu vực ngã 6, phường Y, thành phố Lạng Sơn do Lê Quốc P không biết tên, địa chỉ của đối tượng nên Cơ quan điều tra không có căn cứ, xác minh, xử lý trong vụ án, Hội đồng xét xử không đề cập xử lý .
[10] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an thành phố Lạng Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Về chứng cứ tài liệu trong vụ án được thu thập, bảo quản đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[11] Bị cáo là người bị kết án nên bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 23, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1, 5 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 của Bộ luật Hình sự;
Căn cứ vào khoản 2, 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lê Quốc P phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lê Quốc P 12 (mười hai tháng) tù; thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ 14/5/2019.
Phạt bổ sung đối với bị cáo Lê Quốc P số tiền 10.000.000đ (mười triệu đồng) để sung vào Ngân sách Nhà nước.
3. Xử lý vật chứng: Tịch thu để tiêu hủy 03 (ba) phong bì niêm phong đựng mẫu vật (chất ma túy) sau giám và 02 (hai) đĩa sứ màu trắng hình tròn.
- Trả lại cho bị cáo Lê Quốc P gồm: 01 (một) ví giả da cầm tay màu đen, kích thước 5,5x16x24cm bên ngoài có chữ 'LV' (đã qua sử dụng); 01 (một) giấy chứng minh thư nhân dân số 081034165 mang tên Lê Quốc P; 01 (một) loa dạng hình hộp chữ nhật màu xám kích thước 13x18,5x22cm, có dây cầm tay giả da màu xám; 01 (một) đèn chiếu Laze bằng sắt màu đen, trên mặt có chữ 'LASER SHOW SYSTEM'; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu HUA WEI màu xanh - đen số IMEI1: 869425033825695; số IMEI2:869425033835702 (đã qua sử dụng); 01 (một) thẻ ATM ngân hàng BIDV mang tên Lê Quốc P; 01 (một) thẻ ATM ngân hàng Agribank mang tên Lê Quốc P; 01 (một) thẻ ATM ngân hàng Sacombank mang tên Lê Quốc P; 01 (một) thẻ ATM ngân hàng Techombank mang tên Lê Quốc P; 01 (một) thẻ ATM ngân hàng Techombank mang tên Hoàng Trung N và số tiền 9.950.000 đồng, nhưng đối với số tiền cần tạm giữ để đảm bảo cho việc thi hành án.
- Trả lại cho Nguyễn Thanh H1: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu HUA WEI màu đen đã vỡ màn hình, số IMEI1: 868009037054436; số IMEI2: 868009037070440 (đã qua sử dụng); 01 (một) túi sách giả da màu nâu, có dây đeo màu đen (đã qua sử dụng); 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu GOLY, màu đen, số IMEI0: 353938080333754; số IMEI1: 353938080333762 (đã qua sử dụng) và số tiền 7.000.000 đồng.
- Trả lại cho chị Lưu Thu P1: 01 (một) xe ôtô nhãn hiệu MAZDA CX5, màu trắng, BKS: 12A- 094.93, số máy: PE21063185; số khung 5726J083771 (đã qua sử dụng); 01 (một) thẻ ATM ngân hàng Techombank mang tên Lưu Thu P1; 01 (một) thẻ ATM ngân hàng Sacombank mang tên Lưu Thu P1;
- Tịch thu để sung để hóa giá sung Ngân sách nhà nước: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE màu trắng vàng, đã vỡ màn hình, số IMEI1: 353802083452443 (đã qua sử dụng);
(Vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L, tỉnh Lạng Sơn theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 16 tháng 8 năm 2019 và ủy nhiệm chi chuyển khoản, chuyển tiền điện tử ngày 04/9/2019).
4. Án phí: Buộc bị cáo Lê Quốc P phải nộp số tiền 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung vào ngân sách Nhà nước.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 151/2019/HS-ST ngày 18/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 151/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/09/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về