TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 150/2018/HSST NGÀY 17/05/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 17 tháng 5 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nam Định tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 127/2018/TLST- HS ngày 11 tháng 4 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 127/2018/QĐ-HSST ngày 07-5-2018 đối với bị cáo:
Vũ Văn C - sinh năm 1978 tại tỉnh Nam Định; Nơi cư trú: Xóm G, xã N, huyện N, tỉnh Nam Định; Nghề nghiệp: tự do; Trình độ văn hoá: lớp 07/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Vũ Văn Đ và bà Nguyễn Thị Đ; Có vợ và 02 con; Tiền án: Ngày 16-7-2014 Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm phạt 30 tháng tù giam về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” (ra trại ngày 12-3-2016); Tiền sự: không; Bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 27-12-2017 (có mặt).
Người làm chứng: anh Ngô Văn C, anh Phạm Thế Hg
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 13 giờ 15 phút ngày 27-12-2017 Tổ công tác Công an phường Ngô Quyền, thành phố Nam Định làm nhiệm vụ tại khu vực trước cửa số nhà 586 đường Đặng Xuân Bảng, xã Nam Vân, thành phố Nam Định phát hiện Vũ Văn C đang đi xe máy biển kiểm soát 18K1-21420 một mình có biểu hiện nghi vấn, tổ công tác đã yêu cầu dừng xe để tiến hành kiểm tra, thu giữ trong tay phải C 01 gói giấy bạc màu trắng, bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng (C khai là Heroine). Tổ công tác đã mời người làm chứng, thu giữ, niêm phong gói ma túy trên và đưa C về trụ sở Công an tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật, ngoài ra còn tạm giữ của C 01 chiếc điện thoại Nokia màu đen đã cũ và chiếc xe máy biển kiểm soát 18K1-21420.
Bản kết luận giám định số 1085/GĐTHS ngày 29-12-2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Vật chứng thu giữ của Vũ Văn C là chất ma túy, loại ma túy Heroine, khối lượng 0,105gam
Tại Cơ quan điều tra, Vũ Văn C đã khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng cụ thể như sau: Khoảng 12 giờ ngày 27-12-2017, Chương đi xe máy biển kiểm soát 18K1-21420 từ nhà đến trước cửa một nhà (không rõ địa chỉ) gần khu vực đền Cô Bơ, xã Nam Phong mua qua một khe cửa, không rõ người bán 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng. Trên đường về đến trước cửa số nhà 586 đường Đặng Xuân Bảng thì bị phát hiện bắt giữ.
Đối với đối tượng đã bán ma túy cho Vũ Văn C, tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ kết luận nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định đã tách ra tiếp tục điều tra, xử lý sau
Đối với chiếc xe máy biển kiểm soát 18K1-21420, xét không liên quan đến hành vi phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là ông Vũ Văn Đậu (bố bị cáo).
Bản cáo trạng số 139/CT-VKSTPNĐ ngày 10-4-2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định truy tố Vũ Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định giữ quyền công tố tại phiên tòa luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm g khoản 1 Điều 48, điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999; Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20-6-2017 của Quốc hội; khoản 3 Điều 7, điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017); xử phạt bị cáo từ 24 tháng tù đến 27 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; không áp dụng hình phạt bổ sung;
- Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 để xử lý vật chứng đã thu giữ.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Bị cáo nói lời sau cùng: đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Quá trình tiến hành tố tụng của các cơ quan và người tiến hành tố tụng đều thực hiện đúng theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[2] Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các chứng cứ sau: Biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng, bản kết luận giám định số 1085/GĐKTH ngày 29-12-2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Nam Định cùng toàn bộ các tài liệu có trong hồ sơ đã có đủ cơ sở để khẳng định: Khoảng 13 giờ 15 phút ngày 27-12-2017 tại khu vực trước cửa số nhà 586 đường Đặng Xuân Bảng, xã Nam Vân, thành phố Nam Định, Vũ Văn C đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,105gam Heroine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ. Hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999.
Bị cáo bị truy tố về hành vi phạm tội theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999. Tuy nhiên căn cứ theo Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20-6-2017 của Quốc hội, Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là những tình tiết có lợi cho bị cáo để quyết định hình phạt đối với bị cáo.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự trị an trên địa bàn thành phố.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có một tiền án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm, Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luậtHình sự năm 1999 để tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải vì vậy Hội đồng xét xử áp dụng điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999 để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.
Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, tình tiết giảm nhẹ, nhân thân của bị cáo và đề nghị của Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt tù có thời hạn nhằm trừng trị, đồng thời giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.
[3] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo tàng trữ ma túy nhằm mục đích sử dụng cho bản thân, không nhằm kiếm lời bất chính; Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[4] Về xử lý vật chứng: Số ma túy đã thu giữ là vật Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy. 01 điện thoại di động là tài sản của bị cáo, xét không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
[5] Án phí: Bị cáo Vũ Văn C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 194, điểm g khoản 1 Điều 48, điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999; Điều 2 Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20-6- 2017 của Quốc hội, khoản 3 Điều 7, điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017); Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
1. Tuyên bố Vũ Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt Vũ Văn C 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 27-12-2017.
2. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma túy có trong phong bì niêm phong số 1085/GĐKTHS. Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án (Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 22-3-2018)
3. Án phí: Bị cáo Vũ Văn C phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo: Bị cáo Vũ Văn C được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án có quyền tự nguyện thi hành hoặc cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành dân sự./.
Bản án 150/2018/HSST ngày 17/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 150/2018/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/05/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về