TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG
BẢN ÁN 107/2017/HS-ST NGÀY 21/08/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 21 tháng 8 năm 2017, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 108/2017/HSST ngày 31 tháng 7 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 107/2017/HSST-QĐ ngày 10/8/2017 đối với bị cáo:
NGUYỄN VĂN H, sinh ngày 19/8/1965 tại Tuyên Quang. Trú tại: Thôn Y, xã P, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang.
Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn 5/10; Con ông Nguyễn Văn M (đã chết) và bà Nguyễn Thị L; có vợ là Nguyễn Thị Th, sinh năm 1965 và 03 con, lớn nhất sinh năm 1985, nhỏ nhất sinh năm 1990; tiền án, tiền sự: Không
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/5/2017, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang. Có mặt tại phiên tòa.
NHẬN THẤY
Bị cáo Nguyễn Văn H bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Ngày 16/5/2017, bị cáo Nguyễn Văn H có nhờ Lê Văn T chở xuống Thành phố T chơi, khoảng 19 giờ 45 phút, khi đi đến khu vực ngã ba, gần Uỷ ban nhân dân phường H, thành phố T (thuộc tổ X, phường H), bị cáo gặp người đàn ông đã bán hêrôin cho bị cáo khoảng một tháng trước nên đã bảo T dừng xe, vừa gặp nhau, người đàn ông hỏi bị cáo có mua hêrôin không, bị cáo nói có và đưa 100.000 đồng cho người này, người đàn ông cầm tiền rồi đưa cho bị cáo 01 gói nhỏ ni - lon màu trắng, bên trong là giấy bạc có chứa chất bột màu trắng. Khi bị cáo vừa mua xong thì tổ công tác Công an phường Hưng Thành đi đến, phát hiện bị cáo và Lê Văn T có biểu hiện nghi vấn nên đã đưa về trụ sở, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ 01 gói nhỏ ni - lon màu trắng, bên trong là giấy bạc có chứa chất bột màu trắng ngà do bị cáo tự giao nộp (bị cáo khai là hêrôin mục đích để sử dụng). Xét nghiệm tìm chất ma tuý đối với bị cáo và đối tượng Lê Văn T, kết quả đều (+) dương tính.
Tại Kết luận giám định số 243/GĐKTHS ngày 19/5/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang kết luận: Chất bột vón cục màu trắng ngà trong gói nhỏ thu giữ của bị cáo Nguyễn Văn H là hêrôin, có trọng lượng 0,207 gam (không phẩy hai không bảy gam).
Từ nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 111/QĐ-KSĐT ngày 31 tháng 7 năm 2017, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, kết thúc phần xét hỏi Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Áp dụng khoản 1 Điều 194; đoạn 1, 2 điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999; Khoản 3 Điều 7; điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H từ 01 năm 02 tháng tù đến 01 năm 05 tháng tù.
Ngoài ra, Kiểm sát viên còn đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy số hêrôin đã thu giữ của bị cáo; tuyên quyền kháng cáo và buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Bị cáo Nguyễn Văn H nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, không có ý kiến tranh luận gì và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo.
XÉT THẤY
Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn H tiếp tục thừa nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung bản Cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra.
Hành vi phạm tội của bị cáo còn được thể hiện qua biên bản bắt người phạm tội quả tang; lời khai người làm chứng; tang vật thu giữ; kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Các chứng cứ trên đây đã đủ cơ sở kết luận: Khoảng 19 giờ 45 phút ngày 16/5/2017, tại khu vực tổ X, phường H, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang, bị cáo Nguyễn Văn H đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,207 gam (không phẩy hai không bảy gam) hêrôin, mục đích để sử dụng.
Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.
Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý chất ma túy, ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương, là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác, do vậy Hội đồng xét xử xét thấy cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù giam nghiêm minh, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để cải tạo, giáo dục đối với bị cáo, đồng thời góp phần vào công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung.
Hiện bị cáo bị truy tố, xét xử theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 và mức hình phạt được quy định từ 02 năm đến 07 năm, xong tại khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 thì cũng với tội danh "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" và với trọng lượng hêrôin mà bị cáo đã tàng trữ thì mức hình phạt được quy định đã được giảm xuống là từ 01 năm đến 05 năm. Trong khi đó tại khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: ''Điều luật xóa bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng nặng, quy định một hình phạt nhẹ hơn... , thì được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành'', do vậy, căn cứ Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử thấy khi lượng hình cần xem xét áp dụng theo hướng có lợi cho bị cáo do có sự thay đổi về pháp luật.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, quá trình điều tra và tại phiên toà đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có anh trai là Nguyễn Văn K là Liệt sĩ, hiện bị cáo đang trực tiếp thờ cúng Liệt sĩ và nuôi dưỡng mẹ đẻ của Liệt sĩ. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại đoạn 1, đoạn 2 điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự cần áp dụng cho bị cáo.
Bị cáo là đối tượng nghiện chất ma tuý và hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý của bị cáo nhằm mục đích sử dụng, không có mục đích vụ lợi nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Đối với người đàn ông mà bị cáo khai đã bán hêrôin cho bị cáo do không xác định được tên, địa chỉ nơi ở nên không có căn cứ xác minh xử lý nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo Nguyễn Văn H và đối tượng Lê Văn T, ngày 12/6/2017 Công an thành phố Tuyên Quang đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính (phạt tiền 750.000đ) đối với bị cáo và T, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
Về xử lý vật chứng: Đối với số hêrôin (là đối tượng giám định hoàn lại) đựng trong phong bì niêm phong có chữ ký của bị cáo Nguyễn Văn H và 05 hình dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang, là vật chứng của vụ án thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành, không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
1.Áp dụng khoản 1 điều 194; đoạn 1, đoạn 2 điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33 Bộ luật Hình sự năm 1999; Khoản 3 Điều 7; điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội:
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ tạm giam (16/5/2017).
2. Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự; Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong có chữ ký của bị cáo Nguyễn Văn H và 05 hình dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang, bên trong có chứa hêrôin (là đối tượng giám định hoàn lại).
Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố Tuyên Quang và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang ngày 11/8/2017.
3. Áp dụng các Điều 99, 231, 234 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
- Bị cáo Nguyễn Văn H phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
- Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 107/2017/HS-ST ngày 21/08/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 107/2017/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/08/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về