TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 76/2017/HS-ST NGÀY 22/09/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 22 tháng 9 năm 2017, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm vụ án thụ lý số: 75/2017/HSST ngày 08/9/2017 đối với bị cáo:
Nguyễn Ngọc B, sinh năm 1982;
Đăng ký hộ khẩu thường trú: bản N, thị trấn T, huyện T, tỉnh Lai Châu; Quốc tịch: Việt Nam;
Dân tộc: Lô Lô;Tôn giáo: Không;
Trình độ văn hoá: 09/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do;
Bố đẻ: Nguyễn Hữu B, đã chết;
Mẹ đẻ: Sầm Thị P, sinh năm 1951;
Hiện là cán bộ hưu trí, trú tại bản N, thị trấn T, huyện T, tỉnh Lai Châu; Gia đình có 04 chị em, bị cáo là con thứ hai;
Có vợ là: Nguyễn Thị H, sinh năm 1981; Hiện làm cán bộ y tế, trú tại bản N, thị trấn T, huyện T, tỉnh Lai Châu; Có 02 con, lớn sinh 2006, nhỏ sinh 2014
Tiền án, tiền sự: Không;
Nhân thân: Còn nhỏ được gia đình nuôi ăn học đến hết lớp 09/12. Năm 1997 đến năm 2000 học tại Trường cao đẳng sư phạm tỉnh Đ. Từ năm 2000 đến năm 2011 công tác tại Trường trung học cơ sở xã N, huyện T, tỉnh Lai Châu.
Bản án số 20/2012/HSST ngày 28/02/2012 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Lai Châu, xử phạt Nguyễn Ngọc B 24 tháng tù về tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” (chấp hành xong bản án ngày 31/7/2013).
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 21/6/2017 đến ngày 27/6/2017 chuyển tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình cho đến nay.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do bản thân nghiện ma túy nên khoảng 09 giờ ngày 21/6/2017, Nguyễn Ngọc B đi bộ ra thị trấn Q, huyện Q, mục đích tìm mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Khi đi đến khu vực ngã tư B, thuộc địa phận tổ 01, thị trấn Q, huyện Q, B gặp; mua của một nam thanh niên, khoảng 30 tuổi, không biết tên và địa chỉ 210.000 đồng, được 01 gói ma túy, bên ngoài gói bằng giấy màu vàng. B cầm gói ma túy rồi đi bộ tìm chỗ vắng để sử dụng thì bị tổ công tác của Cơ quan điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ, phát hiện và thu giữ tại lòng bàn tay bên trái của B 01 gói nhỏ, bên ngoài được gói bằng giấy hai màu, mặt màu vàng quay ra ngoài, mặt màu trắng quay vào trong, bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong gói vật chứng.
Tại bản kết luận giám định số 262/KLGĐ - PC54 ngày 21/6/2017 của phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Thái Bình, kết luận: “Mẫu gửi giám định là ma túy, loại Heroin (Hêrôin), có trọng lượng 0,3565gam”. Heroine STT: 20, Danh mục I, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính Phủ.” Tại bản Cáo trạng số 78/KS-ĐT ngày 08/9/2017, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình đã truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa xét xửsơ thẩm, bị cáo Nguyễn Ngọc B khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu.
Đại diện Viện kiểm sát huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình phát biểu quan điểm tại phiên tòa: Giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố đối với bị cáo Nguyễn Ngọc B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và áp dụng khoản 1 điều 194; điều 33; điều 45; điểm p khoản1 Điều 46 Bộ luật hình sự 1999 và Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/06/2017 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 xử phạt bị cáo mức án từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù và thời hạn tù được tính từ ngày tạm giữ 21/6/2017. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong hoàn trả mẫu vật giám định số: 262/KLGĐ-PC54 ngày 21/6/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo Nguyễn Ngọc B không có tranh luận gì với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát và xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình, Kiểm sát viên của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền,trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến đề nghị, khiếu nại gì.
Do vậy các hành vi, quyết định tố tụng của các Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.
Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nội dung bản cáo trạng được chứng minh bằng các chứng cứ, tài liệu được thu thập có trong hồ sơ như:
- Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an huyện Quỳnh Phụ, lập hồi 09 giờ 30 phút ngày 21/6/2017 tại trụ sở Công an thị trấn Quỳnh Côi, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình (Bút lục số 01 - 02);
- Biên bản niêm phong vật chứng; Bản kết luận giám định 262/KLGĐ-PC54 ngày 21/06/2017 của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Thái Bình. (Bút lục số 04; 08)
- Bản tự khai và biên bản ghi lời khai của những người làm chứng gồm: ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1960, trú tại: tổ 04, thị trấn Q, huyện Q và ông Nguyễn Hữu T, sinh năm 1964, trú tại: tổ 01, thị trấn Q, huyện Q (Bút lục số: 67 đến 75)
Ngoài ra hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng các tài liệu khác thu thập được có trong hồ sơ.
Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 9 giờ 15 phút ngày 21/6/2017, tại khu vực tổ 01, thị trấn Quỳnh Côi, huyện Quỳnh Phụ của tỉnh Thái Bình, Nguyễn Ngọc B đã có hành vi tàng trữ trái phép trên người 01 gói nhỏ là ma túy, loại Hêrôin, có trọng lượng 0,3565 gam mục đích để sử dụng cho bản thân bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ đã truy tố là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Hành vi của bị cáo Nguyễn Ngọc B đã phạm vào tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.
Điều 194: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý.
"1. Người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma
tuý, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm;
.........
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm".
Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thấy rằng: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Bị cáo hiểu được tác hại của ma túy đối với sức khỏe con người, hiểu được tệ nạn ma tuý đang là mối quan tâm, nhức nhối của toàn xã hội. Ma túy là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến đại dịch HIV/AIDS đồng thời là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác, bị cáo có nhân thân xấu đã bị xử phạt 24 tháng tù về tội “tàng trữ trái phép chất ma túy”, do vậy bị cáo phải chịu mức án tương xứng với hành vi phạm tội của mình và cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo thành người công dân tốt, có ích cho xã hội đồng thời đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung.
Đánh giá về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo thì thấy: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã khai báo thành khẩn nên cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm p khoản 1 điều 46 của Bộ luật hình sự.
Hội đồng xét xử áp dụng các quy định có lợi cho người phạm tội đối với bị cáo theo Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/06/2017 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13. Xét thấy bị cáo tàng trữ ma túy để sử dụng cho bản thân và bị cáo có thu nhập không ổn định do đó không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Do không có căn cứ xác định người đã bán ma túy cho bị cáo nên cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra xử lý xét thấy là phù hợp.
Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ của bị cáo Nguyễn Ngọc B 01 gói ma túy loại Heroine có có trọng lượng 0,3565 gam, Cơ quan giám định đã hoàn mẫu vật giám định trong phong bì niêm phong, cần tịch thu để tiêu huỷ là phù hợp với quy định tại Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1.Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc B phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”
Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 45; Điều 33 Bộ luật hình sự 1999; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/06/2017 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13. Xử phạt Nguyễn Ngọc B 02 (hai) năm tù, thời hạn tù được tính từ ngày 21/6/2017. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo
2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy trong phong bì niêm phong hoàn trả mẫu vật giám định số 262/KLGĐ-PC54 ngày 21/06/2017 của phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Thái Bình. (Vật chứng trên đang được chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ của tỉnh Thái Bình quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ và chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình ngày 07/9/2017).
3. Về án phí: Áp dụng theo điều 99 của Bộ luật tố tụng hình sự và điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Nguyễn Ngọc B phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm Án tuyên công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo. Báo cho biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 22/9/2017
Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn