Bản án 148/2018/HS-ST ngày 26/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 148/2018/HS-ST NGÀY 26/10/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 26 tháng 10 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 140/2018/TLST-HS ngày 28 tháng 9 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 206/2018/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo:

HỒ PHÚC T (Tên gọi khác: B), sinh năm 1991 tại Khánh Hòa; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Thôn TK, xã NS, thị xã NH, tỉnh Khánh Hòa và chổ ở trước khi bị bắt: Tổ 10, phường IK, thành phố P, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hoá (học vấn): 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch:Việt Nam; con ông Hồ Phúc T1 (Đã chết) và bà Võ Thị L; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân tốt; bị bắt quả tang và tạm giữ ngày 14/6/2018. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố P. Có mặt tại phiên tòa.

- Người tham gia tố tụng khác:

Người chứng kiến: Ông Hoàng Văn Đ, sinh năm 1963; nơi cư trú: 121 HS, tổ 10, phường IK, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồ Phúc T là người có sử dụng ma túy; T có số điện thoại của đối tượng nam thanh niên tên Đ (Chưa xác định được nhân thân, địa chỉ), là người có bán ma túy. Đầu tháng 6/2018, tại khu vực đường NĐ thuộc Tổ 10, phường IK, thành phố P, tỉnh Gia Lai, T đã mua ma túy của Đ với số tiền 2.000.000 đồng, mục đích để sử dụng; T đã trả cho Đ 1.000.000 đồng, còn nợ lại 1.000.000 đồng. Số ma túy mua được, T mang về phòng trọ ở số 61/206 đường LTT, tổ 10, phường IK, thành phố P, tỉnh Gia Lai phân chia thành nhiều gói nhỏ được gói bằng nilon, ống hút nhựa và cất giấu trong phòng, để sử dụng dần. Đến 12 giờ 15 phút ngày 14/6/2018, khi T đang ở trong phòng trọ, thì bị Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Gia Lai phát hiện, bắt quả tang. Cơ quan điều tra thu giữ trong phòng ngủ của T 02 gói nilon, bên trong đều chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng, được niêm phong và đánh ký hiệu số 1; 01 gói nilon bên trong chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng được niêm phong và đánh ký hiệu số 2; 01 ống nhựa màu đen, một đầu màu xanh, bên trong có chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng, được niêm phong và đánh ký hiệu số 3.

Qua giám định, tại Kết luận giám định số 401/KLGĐ ngày 22/6/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Gia Lai, kết luận:

“1. Chất màu trắng dạng tinh thể, trong 02 gói nilon, trong bì thư ghi “Số 1” niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,6335 gam.

2. Chất màu trắng dạng tinh thể, trong 01 gói nilon, trong bì thư ghi “Số 2” niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,1333 gam.

3. Chất màu trắng dạng tinh thể trong một đoạn ống nhựa được hàn kín hai đầu trong bì thư ghi “Số 3” niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,178 gam.” Tại Bản cáo trạng số 148/CT – VKS ngày 26 tháng 9 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố P truy tố bị cáo Hồ Phúc T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo Hồ Phúc T thừa nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên, bị cáo đồng ý với nội dung truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P nêu trong Bản cáo trạng. Bị cáo T cũng không có ý kiến khiếu nại gì đối với Kết luận giám định Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố P giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị xét xử bị cáo Hồ Phúc T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự với mức hình phạt từ 15 (Mười lăm) đến 18 (Mười tám) tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung. Ngoài ra Đại diện Viện kiểm sát còn đề xuất hướng xử lý vật chứng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố P, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người chứng kiến không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về hành vi của bị cáo: Hồ Phúc T có sử dụng ma túy. Đầu tháng 6/2018 bị cáo đã mua ma túy với mục đích để sử dụng. Vào lúc 12 giờ 15 phút ngày 14/6/2018 tại phòng trọ số 61/206 đường LTT, tổ 10, phường IK, thành phố P, tỉnh Gia Lai bị cáo Hồ Phúc T bị cơ quan điều tra Công an thành phố P phát hiện, bắt quả tang đang tàng trữ 0,94 gam ma túy loại Methamphetamine.

Theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định “ Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây………..: ….. c) Heroin, Cocain, Me thamphetamine….có khối lượng từ 0,1 gam đến 05 gam;”. Như vậy hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Methamphetamine là chất ma túy có nguồn gốc tổng hợp, sử dụng lâu dài ảnh hưởng đến hệ thần kinh gây nên tình trạng ảo giác, hạn chế khả năng kiểm soát hành vi từ đó người nghiện thực hiện nhiều hành vi phạm tội khác. Bị cáo Hồ Phúc T là người đã trưởng thành, bị cáo hoàn toàn nhận thức được được việc tàng trữ ma túy để sử dụng là hành vi nguy hiểm cho xã hội, vi phạm chính sách quản lý độc quyền chất ma túy của nhà nước, góp phần gieo rắc đại dịch HIV – AIDS và những tệ nạn xã hội khác nhưng để thỏa mãn nhu cầu bản thân bị cáo vẫn thực hiện. Vì vậy cần áp dụng cho bị cáo một mức án tù có thời hạn tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội để bị cáo có thời gian học tập, cải tạo bản thân tiến bộ là cần thiết. Tuy nhiên bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 Hội đồng xét xử sẽ xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

Đối với đối tượng nam thanh niên tên Đ, là người bị cáo Hồ Phúc T khai đã bán chất ma túy loại Methamphetamine cho T vào khoảng đầu tháng 6/2018, quá trình điều tra do bị cáo T không biết rõ nhân thân, địa chỉ của đối tượng Đ, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P chưa có căn cứ xử lý. Hiện cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P đang tiếp tục xác minh, khi nào xác định được đối tượng Đ nêu trên, sẽ xem xét và xử lý sau.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Hồ Phúc T.

Về vật chứng vụ án:

Đối với 03 (ba) phong bì niêm phong cùng số 401/PC54 ngày 18/6/2018 có đóng dấu của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Gia Lai là ma túy còn lại sau khi giám định được hoàn trả, xét đây là tang vật của vụ án nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động Nokia màu xanh bị cáo Hồ Phúc T đã sử dụng liên lạc với đối tượng tên Đ để mua ma túy nên cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Hồ Phúc T phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Hồ Phúc T 15 (Mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt, tạm giữ ngày 14/6/2018.

- Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Tịch thu tiêu hủy 03 (ba) phong bì niêm phong cùng số 401/PC54 ngày 18/6/2018 có đóng dấu của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Gia Lai Tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại Nokia màu xanh, kèm sim số (Loại nhãn hiệu 105, điện thoại cũ, không kiểm tra máy móc bên trong) (Tất cả theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/10/2018 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố P và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố P).

- Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; Buộc bị cáo Hồ Phúc T phải nộp 200.000đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 148/2018/HS-ST ngày 26/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:148/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về