Bản án 142/2018/HS-ST ngày 29/06/2018 về tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 142/2018/HS-ST NGÀY 29/06/2018 VỀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 204/2018/HSST/TLST-HS ngày 07 tháng 5 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 128/2018/QĐXXST-HS ngày 24/5/2018 đối với bị cáo:

Đỗ Ngọc C, sinh năm 1944. Nơi cư trú: Thôn T, xã Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 07/10; Con ông Đỗ Văn S (đã chết) và bà Lê Thị C; Có vợ Hoàng Thị T và 04 con, lớn sinh năm 1972; nhỏ sinh năm 1982; Tiền án; Tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 04/9/2002 Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa xử phạt 06 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo đang tại ngoại; “Có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 09h30’ ngày 27/01/2018, tổ công tác đội cảnh sát điều tra Tội phạm về ma túy Công an thành phố T, tỉnh Thanh Hóa làm nhiệm vụ tại khu vực bờ sông thôn T, xã Đ, thành phố T phát hiện Đỗ Ngọc C có biểu hiện khả nghi nên tiến hành kiểm tra, khi bị kiểm tra Đỗ Ngọc C đã tự nguyện giao nộp cho tổ công tác 02 gói giấy nhỏ màu trắng có dòng kẻ, bên trong mỗi gói đều chứa chất bột màu trắng có kích thước 0,5 x 1,5 cm. C khai đó là Hêrôin.

Quá trình điều tra Đỗ Ngọc C khai nhận: Do bản thân bị cáo nghiện ma túy, nên khoảng 8h ngày 27/01/2018, bị cáo đi bộ ra chợ cầu Đống, phường An Hoạch, thành phố T gặp một người nam thanh niên khoảng 30 tuổi không biết tên, địa chỉ, bị cáo mua của người này 02 gói ma túy với giá 200.000đ. Sau khi mua được số ma túy trên bị cáo cất giấu vào trong người và đi bộ về nhà, về đến trước nhà ở bờ sông thôn T, xã Đ, thành phố T thì bị Công an phát hiện bắt giữ.

Căn cứ vào bản kết luận giám định số 385/MT- PC54 ngày 29/01/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Tỉnh Thanh hóa kết luận: Chất bột màu trắng của phong bì niêm phong gửi giám là ma túy, có tổng trọng lượng 0,255 gam loại Hêrôin.

Tại bản cáo trạng số 118/KSĐT - TA ngày 04 tháng 5 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Thanh Hóa truy tố bị cáo Đỗ Ngọc C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Thanh hóa luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm o; điểm s; điểm x khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015; đề nghị xử phạt bị cáo mức án tù 12 đến 15 tháng tù;

Bị cáo nhận tội và công nhận quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát đối với bị cáo là đúng và không có ý kiến tranh luận, trong lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã khai nhận: Vào khoảng 9h30’ngày 27/01/2018, tại khu vực bờ sông thôn T, xã Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa, bị cáo có hành vi tàng trữ 02 gói ma túy, có tổng trọng lượng 0,225 gam loại Hêrôin với mục đích sử dụng, thì bị Công an thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa phát hiện bắt quả tang. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay thống nhất với lời khai trước đây bị cáo đã khai nhận tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

[2] Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi mua ma túy về với mục đích sử dụng của bị cáo có đủ các yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và khung hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS, như cáo trạng và quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát là có cơ sở, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất vụ án, mức độ phạm tội và trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Xét hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi những hậu quả rất nghiêm trọng do việc mua bán, vận chuyển, nghiện chất ma túy gây ra. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, bị cáo hiểu rõ về tác hại của ma túy nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện, do đó cần phải được xử lý nghiêm minh mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và có tính phòng ngừa chung.

[4] Xét các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Tuy nhiên nhân thân bị cáo vào ngày 04/9/2002 đã bị Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa xử phạt 06 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, nay bị cáo lại tiếp tục phạm tội, điều đó chứng tỏ bị cáo không chịu rèn luyện bản thân, xem thường pháp luật;

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, khi phạm tội bị cáo đã 74 tuổi; bản thân bị cáo là người có công với Cách mạng; là thương binh nên khi quyết định hình phạt cần áp dụng điểm o; s; x khoản 1 Điều 51 BLHS để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Do bị cáo mua ma túy với mục đích sử dụng, nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo để sung quỹ Nhà nước là phù hợp pháp luật.

[5] Về vật chứng:

Số ma túy thu của bị cáo Đỗ Ngọc C được niêm phong là vật Nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại khoản 1, điểm a Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm o; điểm s; điểm x khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS năm 2015; Khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106, Điều 136 của Bộ luật tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Đỗ Ngọc C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

Xử phạt: Đỗ Ngọc C 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

V vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì ma túy niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Tỉnh Thanh Hóa, theo biên bản giao nhận vật chứng số 121 ngày 14/5/2018 giữa Công an Thành phố Thanh Hóa và Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố Thanh Hóa.

V án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí HSST.

Người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 7 và điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

245
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 142/2018/HS-ST ngày 29/06/2018 về tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:142/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về