Bản án 14/2018/HSST ngày 07/03/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TP TRÀ VINH, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 14/2018/HSST NGÀY 07/03/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 07 tháng 3 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh, số 169, Phạm Ngũ Lão, khóm 4, phường 1, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 05/2018/HSST, ngày 01 tháng 02 năm 2018 đối với bị cáo:

Bị cáo: Trần Ngọc H, sinh năm 1974 ; Tên gọi khác: không;

Nơi ĐKHKTT: số 2/50, khóm G, phường A, thành phố T, tỉnh TV

Chổ ở: Khóm G, phường D, thành phố T, tỉnh TV;

Nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 3/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; con ông Trần Văn D, sinh năm 1947(chết 2015) và bà Nguyễn Thị Kim H, sinh năm 1946; sống như vợ chồng với Nguyễn Thị Thu L, sinh năm1974,  con 01 người sinh năm 1997.

Tiền án: không

Tiền sự: 01 lần

Bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Trộm cắp tải sản, theo Quyết định xử phạt hành chính số 69/QĐ-XPVPHC, ngày 29/5/2017 của Công an xã L, thành phố T với số tiền 1.500.000 đồng.

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 31/10/2017; sau đó chuyển tạm giam cho đến nay; Bị cáo có mặt tại phiên tòa;

- Người bị hại:

1. Anh Bùi Anh K (UG), sinh năm 1974 (vắng mặt);

Địa chỉ: Khóm I, phường K, thành phố T, tỉnh TV;

2. Chị Lê Thị Thu T, sinh năm 1991 (có mặt); Địa chỉ: ấp RM, xã N, huyện C, tỉnh Trà Vinh; Tạm trú: ấp VH, xã L, thành phố T, tỉnh TV;

3. Anh Thạch Oanh N, sinh năm 1989 (vắng mặt);

Địa chỉ: Số H, khóm G, phường A, thành phố T, tỉnh TV;

Tạm trú: ấp VH, xã L, thành phố T, tỉnh TV;

4. Ông Phạm Văn Đ, sinh năm 1968 (vắng mặt); Địa chỉ: ấp X, xã HT, huyện C, tỉnh TV;

5. Anh Ngô Trọng T, sinh năm 1989 (vắng mặt);

Địa chỉ: số 79, LL, khóm E, phường H, thành phố T, tỉnh TV;

- Người làm chứng:

1.  Anh Lê Trung N, sinh năm 1991 (vắng mặt) Địa chỉ: số H, xã M, huyện C, tỉnh TV;

2.  Anh Nguyễn Thanh P, sinh năm 1985 (vắng mặt) Địa chỉ: Khóm C, phường E, thành phố T, tỉnh TV;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Trần Ngọc H là đối tượng nghiện ma túy, để có tiền mua ma túy sử dụng, bị cáo đã nhiều lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Trà Vinh, cụ thể như sau:

- Lần thứ nhất: Vào khoảng 2 giờ, ngày 22/8/2017 bị cáo H điều khiển xe đạp lên khu vực phường K, thành phố Trà Vinh để tìm tài sản lấy trộm, khi đến ngã ba đường chính dẫn vào khu di tích Ao Bà Om thì gặp người thanh niên có tên là N ( không rõ họ, địa chỉ cụ thể) rủ bị cáo lại nhà trọ 79 gần đó để trộm gà, thì bị cáo đồng ý. Khi đến nơi thấy tường rào quá cao, không đột nhập trực tiếp vào bên trong được, quan sát thấy cửa rào chính của nhà có vựa phế liệu kế bên có khoảng trống, nên bị cáo và N leo vào bên trong nhà vựa phế liệu, sau đó để trèo tường rào qua nhà trọ 79.

Tuy nhiên khi đột nhập vào kho phế liệu của anh Bùi Anh K bị cáo phát hiện trong kho có 01 cái máy hàn điện nhãn hiệu HTC màu xanh, bị cáo lấy máy hàn đem ra bên ngoài để lên xe đạp chở về nhà cất giấu tài sản, còn tên N có lấy trộm được tài sản của anh K được hay không, thì bị cáo không biết.

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Trà Vinh đã thu hồi máy hàn điện nhãn hiệu HTC màu xanh, trả lại cho anh K. Riêng đối với bao dây điện bằng đồng có trọng lượng khoảng 28 kg anh K làm đơn cớ mất chung với cái máy hàn. Qua điều tra làm rỏ không phải do bị cáo lấy, nên Công an thành phố Trà Vinh tiếp tục xác minh làm rỏ, sẽ xử lý sau.

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 93/BB-HĐĐG, ngày 28/11/2017 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thành phố Trà Vinh, kết luận máy hàn nhãn hiệu HTC, màu xanh đã qua sử dụng có giá là 2.000.000 đồng.

- Lần thứ hai: Sau khi chơi game bắn cá tại khu vực Phường D, thành phố Trà Vinh, bị cáo đi xe ôm của một người đàn ông (không rỏ họ tên, địa chỉ) ra nhà trọ SĐ 1 thuộc ấp VH, xã L, thành phố Trà Vinh để ngũ. Khi đến khu Công nghiệp L thuộc ấp VH, xã L, thành phố Trà Vinh thì khoảng 2 giờ 30 phút, ngày 31/10/2017 bị cáo xuống xe đi bộ, trên đường đi bị cáo phát hiện phòng trọ đầu tiên của nhà trọ PD không đóng cửa, bị cáo dùng đèn pin rọi vào phòng thấy chị Lê Thị Thu T và anh Nguyễn Văn H đang nằm ngũ bên cạnh để 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung Galaxy J7 Prime màu trắng vàng và bộ quần áo bảo vệ màu xanh. Thấy vậy bị cáo liền đi vào bên trong lấy trộm điện thoại và bộ quần áo mang ra bên ngoài, kiểm tra trong túi quần, áo không có tài sản để chiếm đoạt, bị cáo rút lấy sợi dây thắt lưng đang luồn trong quần, sau đó bỏ lại bộ quần áo ven đường, qua làm việc chị T cho rằng ngoài những tài sản bị cáo thừa nhận lấy trộm chị còn bị mất 01 chiếc nhẫn vàng 18Kra, trọng lượng 01 chỉ 04 ly để trong túi áo và tiền Việt Nam 440.000 đồng để trong túi quần. Quá trình điều tra bị cáo không thừa nhận trộm cắp tài sản trên.

Hiện cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Trà Vinh đã thu hồi được dây thắt lưng giao trả lại cho chị T. Riêng chiếc điện thoại trên đường bị lực lượng Công an truy đuổi bị cáo đã đánh rơi mất nên chưa thu hồi trả lại cho bị hại.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 92/BB-HĐĐG, ngày 28/11/2017 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thành phố Trà Vinh, kết luận 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung Galaxy J7 Prime màu trắng vàng, đã qua sử dụng có giá trị 4.000.000 đồng. Dây thắt lưng, trên mặt có hình con rồng đã qua sử dụng có giá 200.000 đồng.

- Lần thứ ba: Sau khi lấy tài sản của chị T xong vào khoảng 3 giờ 30 phút, ngày 31/10/2017 khi đi ngang quán “HD” thuộc ấp VH, xã L, thành phố T, bị cáo lấy đèn pin màu xanh rọi vào bên trông quán thấy không có người, nên bị cáo vén tấm lưới B40 bằng kim loại để vào bên trong quán, thấy cửa phòng ngủ khép hờ, bên trong phòng có anh Thạch Oanh N và anh Lê Trung H đang nằm ngũ, trên đầu nằm có 01 điện thoại di động hiệu Sam sung Galaxy S8+ màu vàng đồng của anh N đang sạc bằng cục sạc dự phòng hiệu Unik màu xám, bị cáo liền lấy móc treo quần áo bằng nhôm bẻ thẳng dùng đầu có móc đưa vào móc sợi dây sạc pin điện thoại kéo điện thoại và cục sạc pin ra lấy trộm rồi tẩu thoát ra bên ngoài, sau đó đi đến nhà nghĩ SĐ 1 để ngũ. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Trà Vinh, đã thu hồi được 01 điện thoại di động hiệu Sam sung Galaxy S8+ màu vàng đồng và cục sạc dự phòng hiệu Unik màu xám và giao trả lại cho anh Thạch Oanh N. 

Tại bản kết luận định giá tài sản số 85/BB-HĐĐG, ngày 02/11/2017 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thành phố Trà Vinh, kết luận điện thoại di động hiệu Sam sung Galaxy S8+ màu vàng đồng và cục sạc dự phòng hiệu Unik màu xám, đã qua sử dụng có giá trị  19.400.000 đồng.

- Lần thứ tư: Đến khoảng 6 giờ 30 phút, ngày 31/10/2017, sau khi ngũ ở nhà nghĩ SĐ 1 ra, bị cáo thuê xe ôm chở đến khu vực gần cầu Long Bình 3, thuộc ấp V, xã L, thành phố Trà Vinh, ghé vào quán nước bên đường để uống nước, đến khoảng 6 giờ 50 phút cùng ngày, bị cáo đi bộ trên đường Vũ Đình Liệu ở gần đó, bị cáo phát hiện có một công trình xây dựng của ông Phạm Văn Đ, vào bên trong thấy không có người trông giữ bị cáo lén lút lấy trộm 01 cây sắt phi 10 dài 28 cm (gọi là càng cua) sau đó tẩu thoát ra bên ngoài, thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang.

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Trà Vinh, đã thu hồi cây sắt phi 10, dài 28 cm đã trả lại cho chủ sở hữu.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 86/BB-HĐĐG, ngày 02/11/2017 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự  thành phố Trà Vinh kết luận cây sắt phi 10, dài 28 cm, đã qua sử dụng, có giá trị 5.000 đồng.

- Lần thứ năm: Vào 7 giờ, ngày 08/8/2017 anh Ngô Trọng T có đến Công an phường H, thành phố Trà Vinh trình báo sự việc tại cửa hàng mua bán, sữa chữa điện thoại di động tọa lạc tại số 79, Lê Lợi, khóm E, phường H, thành phố Trà Vinh do anh làm chủ bị mất trộm như sau: Vào khoảng 22 giờ, ngày 07/8/2017 anh đóng cửa hàng mua bán điện thoại tại số 79 để về nhà ngũ, đến sáng hôm sau khoảng 6 giờ 40 phút, ngày 08/8/2017 khi quay lại cửa hàng thì phát hiện kẻ gian đột nhập vào cửa bên hong cửa hàng vào bên trong lấy trộm tài sản gồm:

- 04 điện thoại di động cùng hiệu Nokia 1280, màu đen, còn mới chưa qua sử dụng.

- 02 điện thoại di động cùng hiệu Nokia 1110i màu đen đã qua sử dụng;

- 02 điện thoại di động cùng hiệu Nokia 106, màu đen đã qua sử dụng;

- 01 điện thoại di động hiệu Sam sung Galaxy note 3, màu trắng đã qua sử dụng;

- 01 điện thoại di động hiệu Sky 860L, màu đen đã qua sử dụng;

- 02 điện thoại di động cùng hiệu Gigi Dream 3, màu vàng còn mới chưa qua sử

- 03 điện thoại di động cùng hiệu Masstel A131 màu đen còn mới chưa qua sử

- 01 điện thoại di động hiệu Gigi Dream 4 màu vàng còn mới chưa qua sử dụng;

- 02 điện thoại di động cùng hiệu Zono F1 màu xanh còn mới chưa qua sử dụng;

- 03 điện thoại di động cùng hiệu Hphone B102 màu đen còn mới chưa qua sử

- 10 điện thoại di động các loại không rõ màu, nhãn hiệu đã qua sử dụng bị hư hỏng không còn sử dụng;

- 06 thẻ cào nạp tiền điện thoại mạng Vinaphone mệnh giá 20.000 đồng chưa sử dụng;

- 08 thẻ cào nạp tiền điện thoại mạng Vinaphone mệnh giá 50.000 đồng chưa sử  dụng;

- 12 thẻ cào nạp tiền điện thoại mạng Viettel mệnh giá 20.000 đồng chưa sử  dụng;
- 05 thẻ cào nạp tiền điện thoại mạng Viettel  mệnh giá 50.000 đồng chưa sử  dụng;
- 07 thẻ cào nạp tiền điện thoại mạng Mobiphone mệnh giá 20.000 đồng chưa sử dụng;

- 07 thẻ cào nạp tiền điện thoại mạng Mobiphone mệnh giá 50.000 đồng chưa sử dụng; 

- 01 màn hình máy vi tính hiệu LCD 15 inch đã qua sử dụng;

Quá trình khám nghiệm hiện trường, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Trà Vinh phát hiện hai dấu vân tay của đối tượng còn in trên tấm kính thủy tinh có kích thước 0,33 x 1,12 m, nên Cơ quan cảnh sát điều tra tiến hành thu mẫu vân tay để tiến hành giám định. Qua kết luận giám định dấu vân tay với điểm chỉ vân tay ngón giữa trái, nhẫn trái trên danh chỉ bản số: 334099513, của bị cáo Trần Ngọc H là do cùng một người in ra. Quá trình điều tra bị cáo không thừa nhận thực hiện vụ trộm cắp tài sản tại cửa hàng mua bán, sửa chửa điện thoại di động tại số 79, LL, khóm E, phường H, thành phố Trà Vinh của anh Ngô Trọng T. Tuy nhiên qua kết quả giám định dấu vân tay để lại hiện trường có đủ cơ sở để xác định chính bị cáo là người thực hiện vụ trộm cắp tài sản. Hiện nay, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Trà Vinh, chưa thu hồi được tài sản trả lại cho chủ sở hữu.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 80/BB – HĐĐG, ngày 19/10/2017 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thành phố Trà Vinh kết luận: 04 điện thoại di động cùng hiệu Nokia 1280, màu đen, còn mới chưa qua sử dụng; 02 điện thoại di động cùng hiệu Nokia 1110i màu đen đã qua sử dụng; 02 điện thoại di động cùng hiệu Nokia 106, màu đen, đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động hiệu Sam sung Galaxy note 3, màu trắng, đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động hiệu Sky 860L, màu đen đã qua sử dụng; 02 điện thoại di động cùng hiệu Gigi Dream 3, màu vàng còn mới chưa qua sử dụng; 03 điện thoại di động cùng hiệu Masstel A131 màu đen còn mới chưa qua sử dụng; 01 điện thoại di động hiệu Gigi Dream 4 màu vàng còn mới chưa qua sử dụng; 02 điện thoại di động cùng hiệu Zono F1 màu xanh còn mới chưa qua sử dụng; 03 điện thoại di động cùng hiệu Hphone B102 màu đen còn mới chưa qua sử dụng; 10 điện thoại di động các loại không rõ màu, nhãn hiệu đã qua sử dụng bị hư hỏng không còn sử dụng; 06 thẻ cào nạp tiền điện thoại mạng Vinaphone mệnh giá 20.000 đồng chưa sử dụng; 08 thẻ cào nạp tiền điện thoại mạng Vinaphone mệnh giá 50.000 đồng chưa sử dụng;12 thẻ cào nạp tiền điện thoại mạng Viettel mệnh giá 20.000 đồng chưa sử dụng; 05 thẻ cào nạp tiền điện thoại mạng Viettel  mệnh giá 50.000 đồng chưa sử dụng;07 thẻ cào nạp tiền điện thoại mạng Mobiphone mệnh giá 20.000 đồng chưa sử dụng;07 thẻ cào nạp tiền điện thoại mạng Mobiphone mệnh giá 50.000 đồng chưa sử dụng; 01 màn hình máy vi tính hiệu LCD 15 inch đã qua sử dụng; có tổng giá trị là 9.830.000 đồng.

Đối với người có tên là N, bị cáo khai không rỏ họ, tên địa chỉ, khi nào Cơ quan Cảnh sát điều tra xác minh làm rỏ sẽ xử lý sau.Đối với chiếc xe đạp bị cáo dùng để làm phương tiện trộm cắp, bị cáo đã bán cho người không rõ, họ tên địa chỉ, nên Cơ quan cảnh sát điều tra không thu hồi được để xử lý.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo H không thừa nhận thực hiện vụ trộm cắp tài sản tại cửa hàng mua bán điện thoại di động tại số 79, LL, khóm E, phường H, thành phố Trà Vinh  do anh Ngô Trọng T làm chủ, 04 vụ trộm còn lại bị cáo thừa nhận do bị cáo trộm cắp như bản cáo trạng đã truy tố.

Tại bản cáo trạng số: 09/CT-VKSTP-HS, ngày 31/01/2018 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh đã truy tố bị cáo Trần Ngọc H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với Trần Ngọc H về tội trộm cắp tài sản. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999, điểm r khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo H từ 02 đến 03 năm tù, về trách nhiệm dân sự. Buộc bị cáo bồi thường cho anh Ngô Trọng T số tiền 9.830.000 đồng, bồi thường cho chị Lê Thị Thu T 4.000.000  đồng. Ngoài ra vị còn đề nghị xử lý vật chứng và án phí. Bị hại chị Lê Thị Thu T yêu cầu bị cáo bồi thường 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung Galaxy J7 Prime màu trắng vàng theo giá Hội đồng định giá tài sản, 01 chiếc nhẫn vàng 18kra, trọng lượng 01 chỉ 04 ly với giá chị mua trước đây là 2.250.000 đồng và tiền Việt Nam 440.000 đồng. Anh Ngô Trọng T yêu cầu bị cáo bồi thường tổng giá trị tài sản mất trộm 9.830.000 đồng.

Bị cáo nói lời sau cùng trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án yêu cầu hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố TràVinh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo được xác định trong khoảng thời gian từ ngày 08/8/2017 đến 31/10/2017 bị cáo đã thực hiện 5 vụ trộm cắp tài sản gồm:

- Lần thứ nhất: Vào khoảng 2 giờ, ngày 22/8/2017 bị cáo H trộm cắp 01 cái máy hàn điện nhãn hiệu HTC màu xanh, của anh Bùi Anh K tại khóm I, phường K, thành phố Trà Vinh trị giá 2.000.000 đồng.

- Lần thứ hai: khoảng 2 giờ 30 phút, ngày 31/10/2017 bị cáo lấy trộm của chị Lê Thị Thu T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung Galaxy J7 Prime màu trắng vàng và sợi dây thắt lưng tại ấp VH, xã L, thành phố Trà Vinh, trị giá 4.200.000 đồng.

- Lần thứ ba: khoảng 3 giờ 30 phút, ngày 31/10/2017 lấy trộm 01 điện thoại di động hiệu Sam sung Galaxy S8+ màu vàng đồng và cục sạc pin dự phòng hiệu Unik màu xám của anh Thạch Oanh N tại ấp VH, xã L, thành phố Trà Vinh trị giá 19.400.000 đồng.

- Lần thứ tư: Đến khoảng 6 giờ 50 phút, ngày 31/10/2017, bị cáo lấy trộm 01 cây sắt phi 10 dài 28 cm (gọi là càng cua) của ông Phạm Văn Đ, tại ấp VH, xã L, thành phố Trà Vinh trị giá 5.000 đồng.

- Lần thứ năm: Vào 7 giờ, ngày 08/8/2017, bị cáo lấy trộm 21 điện thoại di động gồm các nhãn hiệu (Nokia, Samsung Galaxy note 3, Sky 860L, Masstel A131, Gigi Dream 3, Gigi Dream  4, Zono F1, Hphone B102), 10 điện thoại di động các loại không rỏ màu và nhãn hiệu đã qua sử dụng, bị hư hỏng không còn sử dụng, 45 thẻ cào của các mạng (Vinaphone, Viettel, Mobiphone), màn hình máy tính hiệu LCD 15 inch đã qua sử dụng của anh Ngô Trọng T trị giá 9.830.000 đồng.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Trần Ngọc H đã khai nhận bị cáo trộm cắp của anh Bùi Anh K 01 cái máy hàn điện nhãn hiệu HTC màu xanh, lấy trộm của chị Lê Thị Thu T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung Galaxy J7 Prime màu trắng vàng và sợi dây thắt lưng, lấy trộm 01 điện thoại di động hiệu Sam sung Galaxy S8+ màu vàng đồng và cục sạc pin dự phòng hiệu Unik màu xám của anh Thạch Oanh N, lấy trộm 01 cây sắt phi 10 dài 28 cm (gọi là càng cua) của ông Phạm Văn Đ. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, lời khai của bị hại và người làm chứng cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Riêng đối với vụ mất trộm tài sản vào ngày 07/8/2017 tại cửa hàng mua bán, sữa chữa điện thoại di động của anh Ngô Trọng T, tọa lạc tại số 79, LL, khóm E, phường H, thành phố Trà Vinh bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo không thừa nhận thực hiện vụ trộm cắp tài sản trên.

Tuy nhiên với chứng cứ chứng minh của Cơ quan điều tra, qua kết quả giám định dấu vân tay để lại tại hiện trường có đủ cơ sở xác định chính bị cáo là người thực hiện vụ trộm cắp tài sản trên.

Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Trần Ngọc H phạm tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999. Như Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh đã truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, đồng thời làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự  ở địa phương, hơn nữa bị cáo có nhân thân xấu, trước đây đã bị Tòa án nhiều lần xét xử về hành vị trộm cắp tài sản, tuy đã được xóa án tích, nhưng do nghiện ma túy, để có tiền sử dụng vẫn tiếp tục phạm tội. Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa tội phạm.

Khi lượng hình Hội đồng xét xử có xem xét, cân nhắc về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo đã thực hiện nhiều vụ trộm cắp tài sản là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, quá trình điều tra bị cáo đã khai ra lần phạm tội trước đây mà cơ quan điều tra chưa phát hiện, là tình tiết được giảm nhẹ được quy định tại điểm r khoản 1Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

[4] Về vật chứng của vụ án: Cần tịch tiêu hủy 01cây đèn pin màu xanh – trắng, là tang vật dùng để phạm tội, đối với 01 cây đoản bằng kim loại màu bạc dài 7,5 cm; 01 ống điếu dùng để sửa xe bằng kim loại màu bạc trên thân có chữ và số “GS Rebe 8mm” dài 16 cm; 01 cây kìm bằng kim loại màu bạc dài 13,5 cm; 01 cây kìm bấm bằng kim loại màu bạc trên thân có dòng chữ “Top profession tools” dài 22 cm, không phải là công cụ phạm tội nên ngày 22/12/2017 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Trà Vinh đã cho chị Nguyễn Thị Thu L nhận lại tài sản trên.

[5] Về trách nhiệm dân sự:

- Người bị hại anh Bùi Anh K, anh Thạch Oanh N; ông Phạm Văn Đ đã nhận lại tài sản, tại phiên tòa hôm nay các bị hại có đơn xin xét xử vắng mặt và không yêu cầu bị cáo bồi thường, nên không xem xét giải quyết.

- Đối với bị hại chị T cho rằng đã bị mất trộm 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung Galaxy J7 Prime màu trắng vàng, 01 sợi dây thắt lưng, 01 chiếc nhẫn vàng 18kra, trọng lượng 01 chỉ 04 ly để trong túi áo và tiền Việt Nam 440.000 đồng, tuy nhiên qua làm việc bị cáo chỉ thừa nhận lấy trộm 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung Galaxy J7 Prime màu trắng vàng, 01 sợi dây thắt lưng. Quá trình điều tra bị cáo không thừa nhận lấy trộm 01 chiếc nhẫn vàng 18kra  và tiền Việt Nam 440.000 đồng. Cơ quan điều tra có mời chị T để đối chất làm rõ. Tuy nhiên chị T không chấp hành, tại phiên tòa hôm nay chị T cũng không đưa ra được tài liệu chứng cứ chứng minh. Từ đó chưa có cơ sở xác định do bị cáo chiếm đoạt. Nên buộc bị cáo bồi thường cho chị T giá trị 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung Galaxy J7 Prime màu trắng vàng là 4.000.000 đồng. Bị cáo bồi thường tổng giá trị tài sản mất trộm cho anh Ngô Trọng T số tiền 9.830.000 đồng.

[6] Xét thấy cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh truy tố bị cáo Trần Ngọc H theo khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự, là có căn cứ đúng pháp luật. Căn cứ Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12 /2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: bị cáo Trần Ngọc H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999, điểm r khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Bị cáo Trần Ngọc H 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 31/10/2017.

- Về tang vật: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.Tịch tiêu hủy 01cây đèn pin màu xanh – trắng, trên thân có dòng chữ và số “QY-2234” của bị cáo là tang vật dùng để phạm tội.

- Về trách nhiệm dân sự: áp dụng Điều 584, 589 Bộ luật dân sự.

Buộc bị cáo bồi thường cho chị Lê Thị Thu T số tiền là 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng), bồi thường cho anh Ngô Trọng T số tiền 9.830.000 đồng (Chín triệu tám trăm ba chục ngàn đồng).

Đối với bị hại anh Bùi Anh K, anh Thạch Oanh N; ông Phạm Văn Đ không yêu cầu, nên không xem xét giải quyết.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của bên được thi hành án, cho đến khi thi hành án xong, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu cho bên được thi hành án khoản tiền lãi của số tiền gốc còn phải thi hành án theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

Về án phí: Áp dụng Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, bị cáo Trần Ngọc H phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 691.500đ (Sáu trăm chín mươi mốt ngàn năm trăm đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7,7a,7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự năm; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án sơ thẩm xét xử công khai, bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án 07/3/2018. Riêng bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

319
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2018/HSST ngày 07/03/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:14/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Trà Vinh - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về