Bản án 51/2017/HSST ngày 30/08/2017 về trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM THUẬN BẮC, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 51/2017/HSST NGÀY 30/08/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 8 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 49/2017/HSST ngày 31/7/2017; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 49/2017/HSST-QĐ ngày 16/8/2017, đối với bị cáo:

TRƯƠNG TUẤN T - Sinh năm: 1989; Nơi sinh: Đồng Nai; Nơi cư trú: Thôn 9, xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Nghề nghiệp: làm vườn; Trình độ học vấn: 5/12; Tiền sự: không; Tiền án: Ngày 26/01/2016, bị Tòa án nhân dân huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 23/2016/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 26/01/2017, chưa xóa án tích; Cha: Trương Tuấn T1- sinh năm 1957; Mẹ: Nguyễn Thị P- sinh năm 1963. Cả hai hiện trú tại thôn 9, xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng; Gia đình có 03 anh em, bị cáo T là con thứ hai; Bị cáo bị bắt ngày 25/5/2017, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Hàm Thuận Bắc. Bị cáo có mặt.

- Người bị hại: Ông Trần Văn L – Sinh năm 1976 (có mặt).

Nơi cư trú: Thôn Đ, xã Đ, huyện H, tỉnh Bình Thuận.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1/ Ông Trần Văn T – Sinh năm 1980 (vắng mặt).Nơi cư trú: Thôn 2, xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng.

2/ Ông Trương Tuấn T1 – Sinh năm 1957 (có mặt).Nơi cư trú: Thôn 9, xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trương Tuấn T là đối tượng đã có tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 26/01/2016, bị Tòa án nhân dân huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 23/2016/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 26/01/2017, trong thời gian chưa được xóa án tích, Trương Tuấn T tiếp tục phạm tội. Cụ thể như sau:

Vào khoảng 08 giờ ngày 15/5/2017, Trương Tuấn T điều khiển xe mô tô không biển số do cha ruột là Trương Tuấn T1 làm chủ sở hữu đến nhà K’ C ở cùng thôn để uống rượu. Đến khoảng 10 giờ cùng ngày, Trương Tuấn T rủ K’ C đến nhà anh L1 ở Buôn Cùi thuộc xã Đ1 giáp với thôn Đ, xã Đ. Do trước đây, Trương Tuấn T có thời gian làm thuê tại đây, nhưng khi đến nơi thì Trương Tuấn T biết được anh L1 đã bán đất vườn về miền Tây sinh sống. Lúc này, Trương Tuấn T nhớ lại tại ao nước vườn cà phê của Trần Văn L cách đó khoảng 300m thường để cái mô tơ bơm nước nên nảy sinh ý định chiếm đoạt, bán lấy tiền tiêu xài. Trương Tuấn T nói: “Mày chở tao lên khúc này coi còn máy bơm không mang về bán lấy tiền tiêu xài”. K’ C hỏi: “Ở khúc nào”, Trương Tuấn T nói: “Mày chở tao lên cái dốc đến chỗ bằng bằng”. Khi chở nhau đến gần vườn cà phê của anh Trần Văn L thì Trương Tuấn T bảo dừng lại nói với K’ C: “Mày ở đây chờ tao, để tao xuống cái ao xem có máy bơm không thì mang về bán”. Trương Tuấn T lén lút vào vườn cà phê của Trần Văn L đến ao nước cách đó khoảng 200 mét, thấy xung quanh không có ai nên dùng tay kéo dây điện nối với mô tơ hiệu PAPHOVINA, công suất 04HP từ dưới ao lên bờ, dùng lưỡi dao của máy phát cỏ gần đó cắt dây điện, tháo ống nước nhựa nối với mô tơ ra, rồi mang ra nơi K’ C đang đợi để chở về Lâm Đồng.

Đến khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, Trương Tuấn T và K’ C đem mô tơ chiếm đoạt của Trần Văn L đến nhà Lê Trọng P. Thời gian này, Trần Văn T là thợ xây dựng nhà cho Lê Trọng P đang uống rượu ở đây. Nghe Trương Tuấn T nói: “Có ai mua mô tơ bán cho, của nhà kẹt tiền nên bán”, Lê Trọng P hỏi cái gì vậy thì Trần Văn T nói có người bán mô tơ điện bơm nước và hỏi Trương Tuấn T bán bao nhiêu? Khi Trương Tuấn T nói bán với giá 1.000.000đồng thì  Lê Trọng P hỏi Trần Văn Th có mua không?, Lê Trọng P và Trần Văn T đều không biết mô tơ trên do Trương Tuấn T và K’ C vừa trộm cắp của người khác mang đến bán nên Trần Văn T đồng ý mua. Do không có tiền sẵn trong người nên Trần Văn T mượn của Lê Trọng P 1.000.000đồng để đưa cho Trương Tuấn T. Số tiền trên, Trương Tuấn T chia cho K’C 300.000đồng, nhậu hết 200.000đồng, còn lại 500.000đồng Trương Tuấn T tiêu xàihết.

Trần Văn T đem mô tơ trên về nhà thì nghi ngờ đó là tài sản do chiếm đoạt của người khác đem đến bán, đến ngày 19/5/2017, Trần Văn T đã tự nguyện giao nộp cho Công an xã Lộc Nam, huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng. Sau khi làm rõ, Công an xã Lộc Nam đã thông tin tội phạm, chuyển giao đối tượng Trương Tuấn T và K’ C, cùng vật chứng cho Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Hàm Thuận Bắc xử lý theo thẩm quyền.

Trong quá trình điều tra, K’ C đã lẩn trốn, chưa đủ căn cứ khởi tố bị can, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tách vụ án, thông báo truy tìm, xử lý thành một vụ án khác.

Kết luận định giá tài sản số 36/2017/HĐĐGTT, ngày 24/5/2017 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Hàm Thuận Bắc, kết luận: 01 mô tô bơm nước, vỏ màu trắng, hiệu Paphovina công suất 04HP, năm sử dụng: 2015; Giá trị tại thời điểm trộm cắp là 3.800.000đồng, giá trị sử dụng còn lại 60%; Thành tiền: 3.800.000đồng x 60% = 2.280.000đồng.

Vật chứng thu giữ và xử lý:

01 mô tơ bơm nước màu trắng, hiệu Paphovina công suất 04HP; 01 xe mô tô, màu đỏ đã cũ, loại xe City, không có biển số do Trương Tuấn T1 làm chủ sở hữu nhưng không biết con ruột là Trương Tuấn T sử dụng làm phương tiện thực hiện tội phạm Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an Hàm Thuận Bắc đã trả lại cho Trần Văn L, Trương Tuấn T1.

Về dân sự: Trần Văn L và Trần Văn T không yêu cầu Trương Tuấn T bồi thường gì khác.

Tại bản cáo trạng số 53/QĐ-KSĐT-VKS-HS ngày 28/7/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc truy tố Trương Tuấn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Bị cáo Trương Tuấn T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Khoản 1 Điều 138; Điểm p Khoản 1 Điều 46 ; Điểm g Khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự. Phạt Trương Tuấn T từ 09 tháng đến 12 tháng tù.

Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo rất ăn năn hối hận, mong hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hàm Thuận Bắc, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa , bị cáo Trương Tuấn T khai nhận về hành vi phạm tội của bị cáo đúng như Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc đã truy tố. Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại Tòa phù hợp lời khai tại Cơ quan điều tra Công an huyện Hàm Thuận Bắc, các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ và được thẩm tra tại phiên tòa. Đủ căn cứ pháp luật để khẳng định: Khoảng 10 giờ ngày 15/5/2017, Trương Tuấn T và K’ C từ xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng vào Buôn Cùi thuộc xã Đ1, sau đó lén lút chiếm đoạt 01 mô tơ bơm nước hiệu Paphovina, công suất 04HP, trị giá 2.280.000đồng của Trần Văn L đem về xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng bán cho Trần Văn T với giá 1.000.000đồng, chia nhau tiêu xài. Hành vi trên của bị cáo Trương Tuấn T đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại Khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Xét tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Xuất phát từ bản chất tham lam muốn có tiền tiêu xài một cách nhanh chóng nên bị cáo T lợi dụng sơ hở của ông Trần Văn L trong việc bảo quản tài sản để lén lút chiếm đoạt 01 mô tơ bơm nước hiệu Paphovina mang đi bán cho Trần Văn T và cùng chia nhau tiêu xài hết số tiền 1.000.000đ. Bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp rất liều lĩnh vào ban ngày thể hiện sự xem thường kỷ cương pháp luật, xâm phạm tài sản hợp pháp của người khác gây bất bình, tạo ra tâm lý hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân dân, gây mất an ninh trật tự địa phương là nguy hiểm cho xã hội nên cần thiết phải lên cho bị cáo mức án nghiêm khắc để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự : Bị cáo đã có tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích nhưng không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, cải tạo thành người tốt, có ích cho xã hội mà lại tiếp tục phạm tội là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Điểm g Khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự : Bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điểm p Khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự.

[6] Về xử lý vật chứng và dân sự : 01 mô tơ bơm nước màu trắng, hiệu Paphovina công suất 04HP, 01 xe mô tô, màu đỏ đã cũ, loại xe City, không có biển số. Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an Hàm Thuận Bắc đã trả lại cho ông Trần Văn L, ông Trương Tuấn T1. Sau khi nhận lại tài sản ông L, ông T1 không yêu cầu bồi thường gì nên Tòa không xem xét giải quyết. Ông Trần Văn T không yêu cầu bị cáo T trả số tiền mua mô tơ 1.000.000đ nên Tòa không xem xét giải quyết.

[7] Về những vấn đề khác:

Đối với K’C đã lẫn trốn, chưa đủ căn cứ khởi tố bị can, Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Hàm Thuận Bắc đã tách vụ án, thông báo truy tìm, xử lý thành vụ án khác.

Đối với Trần Văn T là người mua mô-tơ bơm nước với số tiền 1.000.000đồng nhưng khi mua ông Trần Văn T không biết tài sản trên do Trương Tuấn T chiếm đoạt của người khác đem đến bán nên Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Hàm Thuận Bắc và Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc không khởi tố là có cơ sở, đúng pháp luật.

Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 98, Điều 99 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Trương Tuấn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng: Khoản 1 Điều 138; Điểm g Khoản 1 Điều 48; Điểm p Khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự.

- Xử phạt: Trương Tuấn T 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày25/5/2017.

2. Về án phí:

- Áp dụng: Điều 98, Điều 99 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Trương Tuấn T phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo đối với bản án:

Bị cáo; người bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (30/8/2017). Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại địa phương.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

877
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 51/2017/HSST ngày 30/08/2017 về trộm cắp tài sản

Số hiệu:51/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hàm Thuận Bắc - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về