Bản án 140/2020/HNGĐ-ST ngày 19/11/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XM, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

 BẢN ÁN 140/2020/HNGĐ-ST NGÀY 19/11/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 19 tháng 11 năm 2020 tại Tòa án nhân dân huyện XM xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 175/2020/TLST- HNGĐ ngày 04 tháng 5 năm 2020 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 136/2020/QĐXXST – HNGĐ ngày 02 tháng 10 năm 2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 112/2020/QĐST - HNGĐ ngày 23 tháng 20 năm 2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Lê Thị T, sinh năm 1982 (vắng mặt, có đơn xin vắng mặt).

Địa chỉ: Khu phố PH, thị trấn PB, huyện XM, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Bị đơn: Ông Hồ Đình T, sinh năm 1975 (vắng mặt).

Hộ khẩu thường trú: Khu phố PH, thị trấn PB, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Chỗ ở: Số 20, đường Võ Thị S, tỉnh lộ 328, khu phố PH, thị trấn PB, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 04/5/2020 bản khai và các biên bản làm việc tiếp theo tại tòa án nguyên đơn – Bà Lê Thị T trình bày:

Bà Lê Thị T xây dựng gia đình với ông Hồ Đình T từ năm 2001, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn PB, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, hôn nhân trên cơ sở tự nguyện. Thời gian đầu sau khi kết hôn, vợ chồng sinh sống tại: Tổ 9, khu phố PH, thị trấn PB, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Vợ chồng sống hạnh phúc đến khoảng năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính tình vợ chồng không hợp nhau, bất đồng ý kiến, không cùng tiếng nói chung nên vợ chồng thường xuyên xảy ra cải vả, dẫn đến tình cảm vợ chồng không hạnh phúc, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Do đó, bà T và ông T không còn sống chung từ khoảng đầu năm 2019 đến nay. Trong thời gian ly thân, vợ chồng có gặp nhau để bàn chuyện hàn gắn tình cảm nhưng không thành. Nay bà T nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được và không có cách nào để níu kéo vợ chồng quay về sống đoàn tụ với nhau nên bà T yêu cầu được ly hôn với ông T.

Về con chung: Bà T và ông T có 02 con chung tên Hồ Đình T, sinh ngày 16/7/2002 và Hồ Ni N, sinh ngày 08/8/2006. Hiện Nay, các con đều phát triển tốt về mặt thể chất và tinh thần, cháu T đã trưởng thành nên không yêu cầu tòa án giải quyết. Từ thời gian ly thân đến Nay, bà T là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu N. Nay bà T yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu N và không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án đã triệu tập ông Hồ Đình T đến tham gia hòa giải nhiều lần nhưng ông T vắng mặt nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Do đó Tòa án lập biên bản về việc vắng mặt đương sự không tiến hành hòa giải được để có cơ sở cho việc giải quyết vụ án. Tại các phiên Tòa ông T đều vắng mặt không có lý do.

Phát biểu quan điểm của Kiểm sát viên: Việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký là đúng trình tự, thủ tục tố tụng được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của đương sự, nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình, còn bị đơn vắng mặt tại các buổi làm việc trước đây cũng như tại các phiên tòa là chưa chấp hành đúng pháp luật.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu ly hôn và giải quyết con chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:

Quan hệ tranh chấp: Bà Lê Thị T yêu cầu ly hôn, giải quyết con chung với ông Hồ Đình T, đây là quan hệ pháp luật “ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại khoản 1, Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Bị đơn ông Hồ Đình T có nơi cư trú tại địa bàn huyện XM theo điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Trong quá trình tham gia tố tụng, bà Lê Thị T có đơn xin vắng mặt, ông Hồ Đình T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng ông T vắng mặt không có lý do. Vì vậy việc xét xử vắng mặt bà T, ông T là phù hợp với quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà T, ông T xây dựng gia đình vào năm 2001 nhưng đến năm 2003 mới đăng ký kết hôn và được cấp giấy chứng nhận kết hôn (Giấy chứng nhận kết hôn số 43, quyển số 01 ngày 28/4/2003 tại UBND thị trấn PB, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu), xét đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Bà T và ông T chung sống hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do bà T và ông T bất đồng quan điểm nên thường phát sinh cãi vã, vợ chồng không có tiếng nói chung. Từ đó tình cảm vợ chồng ngày càng rạn nứt, bà T và ông T đã ngồi lại để giải quyết mâu thuẫn nhưng tình hình vẫn không có gì thay đổi. Hiện bà T và ông T đã ly thân từ đầu năm 2019 đến nay không còn quan hệ qua lại gì về mặt tình cảm cũng như kinh tế.

Kết quả xác minh tại địa phương: Do bà T và ông T không hòa giải ở cơ sở nên địa phương không rõ nguyên nhân mâu thuẫn giữa bà T và ông T.

Xét yêu cầu của bà T cho thấy sau khi mâu thuẫn xảy ra, lẽ ra bà T và ông T phải cùng tìm cách khắc phục những mâu thuẫn của vợ chồng để cuộc sống chung được hạnh phúc và cùng nhau chăm sóc nuôi dạy con cái nhưng từ đầu năm 2019 đến Nay bà T và ông T ly thân. Sau khi bà T gửi đơn, Tòa án đã tiến hành nhiều phiên hòa giải để đoàn tụ vợ chồng nhưng không thể hòa giải được, ông T vắng mặt không lý do, thể hiện không có thiện chí hòa giải.

Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử nhận thấy, tình cảm vợ chồng của bà T và ông T thật sự không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T đối với ông T.

[3] Về con chung: Bà T và ông T có 02 con chung tên Hồ Đình T, sinh ngày 16/7/2002 và Hồ Ni N, sinh ngày 08/8/2006. Cháu T đã trưởng thành nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Xét yêu cầu của bà T cho thấy, từ khi bà T nộp đơn và Tòa án thụ lý vụ án cho đến Nay ông T không đến Tòa án để trình bày ý kiến của mình về việc bà T có yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Hồ Ni N. Xét hiện cháu N đang sống với bà T, và cháu N có nguyện vọng được ở với bà T, hơn nữa cháu N là con gái ở với mẹ sẽ thuận lợi hơn cho cháu nên Tòa án căn cứ vào thực tế và các quy định của Luật hôn nhân và gia đình, để tránh xáo trộn cuộc sống của con chung, giao cháu Hồ Ni N cho bà T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng. Bà T không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Bà T không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Áp dụng Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bà T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Khoản 1 Điều 28, điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Các Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu của bà Lê Thị T đối với ông Hồ Đình T.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị T được ly hôn với ông Hồ Đình T.

2. Về con chung: Bà Lê Thị T và ông Lê Đình Tâm có 02 con chung tên Hồ Đình T, sinh ngày 16/7/2002 và Hồ Ni N, sinh ngày 08/8/2006. Cháu T đã trưởng thành nên Tòa án không xem xét. Giao con chung tên Hồ Ni N, sinh ngày 08/8/2006 cho bà Lê Thị T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng. Bà Lê Thị T không yêu cầu ông Hồ Đình T cấp dưỡng nuôi con nên Tòa án không xem xét.

Ông Hồ Đình T có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Vì lợi ích mọi mặt của con, các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Bà Lê Thị T không yêu cầu nên Tòa án không xem xét.

4. Về án phí: Bà Lê Thị T phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm bà T đã nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001301 ngày 04/5/2020 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Bà T đã nộp đủ án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử phúc thẩm. Đối với đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 140/2020/HNGĐ-ST ngày 19/11/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:140/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuyên Mộc - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về