Bản án 134/2019/HSST ngày 07/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

A ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NINH BÌNH, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 134/2019/HSST NGÀY 07/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 07 tháng11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 129/2019/TLST-HS ngày 04 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 129/2019/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Hà Đức T; Tên gọi khác: Không; sinh ngày 22/5/2001 tại huyện Q, tỉnh N.

Nơi cư trú: Bản H, xã T, huyện Q, tỉnh N.; nghề nghiệp; Lao động tự do; trình độ văn hóa:11/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt nam; con ông: Hà Đức H; con bà: Vi Thị T; vợ con chưa có; Tiền án, Tiền sự: không.

Bị can bị bắt tạm giữ từ ngày 20/6/2019 chuyển tạm giam ngày 26/6/2019 tại trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình. Có mặt.

- Người bào chữa: Ông Phạm Văn S – Trợ giúp viên - Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Ninh Bình. (có mặt)

- Người làm chứng: Anh Dương Văn M, sinh năm 1987 (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hà Đức T là đối tượng nghiện ma túy; Do có mối quan hệ quen biết với một người thanh niên tên L quê ở tỉnh N nên L đã rủ T ra Ninh Bình chơi sau đó dẫn T đến phòng trọ của người thanh niên tên S ở khu vực Thị trấn M, huyện G, tỉnh Ninh Bình. Khoảng 01 giờ ngày 20/6/2019, Hà Đức T đang ở phòng trọ của S thì nhận được điện thoại của L gọi đến nhờ T mang hộ thanh kiếm kim loại, cán bằng gỗ ở phòng trọ của S xuống khu vực trường Đại học H đưa cho L có việc, T đồng ý. Thấy T chuẩn bị ra khỏi phòng, S hỏi T “đi đâu”, T nói “ Mang cây kiếm xuống khu vực thành phố Ninh Bình cho L”. S hỏi T “có bao thuốc lá ở đấy không”, T nói “Có” rồi S bảo đưa bao thuốc lá Thăng Long màu vàng cho S, S cầm bao thuốc lá và bỏ 02 viên nén hình tròn màu hồng, 01 túi nilon màu trắng có chất bột màu trắng được quấn bằng dây màu đen vào bên trong bao thuốc. Sau đó S đưa bao thuốc bên trong có ma túy cho T và bảo mang xuống thành phố Ninh Bình đưa hộ cho một người S đã hẹn từ trước, đồng thời S cho số điện thoại và hướng dẫn địa chỉ của người đó để T liên lạc, T biết S nhờ đưa hộ ma túy nhưng không biết mục đích S nhờ đưa hộ ma túy để làm gì, S không hứa hẹn trả công cho T. Sau đó T cầm bao thuốc là bên trong có ma túy và cất giấu vào túi quần trước bên phải đang mặc rồi lấy thanh kiếm dắt vào hông xe bên phải xe mô tô biển kiểm soát 35N1- 265.14 của S đi xuống khu vực thành phố Ninh Bình. Khi đi đến khu vực đường H, phố P, phường P1, thành phố Ninh Bình thì T sử dụng điện thoại hiệu Samsung A50 lắp sim khuyến mại gọi đến số điện thoại S cung cấp để đưa ma túy thì có người phụ nữ nói “T đợi, sẽ có người ra lấy và hỏi T hết bao nhiêu tiền” T gọi điện cho S hỏi thì S nói “lấy hộ anh khoảng 300.000 đến 400.000 đồng” sau đó T nhắn tin số tiền cho người phụ nữ, người này đồng ý. Vài phút sau có một người đàn ông gọi điện đến cho T nói đi thêm một đoạn nữa và đợi người này ở ven đường. T đồng ý và điều khiển xe mô tô đi tiếp một đoạn và lấy bao thuốc lá Thăng Long màu vàng bên trong có ma túy đang để trong túi quần ra cầm ở tay trái thì bị Tổ công tác phòng cảnh sát cơ động Công an tỉnh Ninh Bình yêu cầu T dừng xe kiểm tra hành chính. Khi bị kiểm tra, T đã tự giác giao nộp cho Tổ công tác 01 bao thuốc lá Thăng Long màu vàng bên trong có 03 điếu thuốc lá, 02 viên nén hình tròn màu hồng và 01 túi nilon màu trắng được buộc bên ngoài bằng dây màu đen bên trong có chất bột tinh thể màu trắng đang cầm ở bàn tay trái, T khai nhận 02 viên nén hình tròn màu hồng và 01 túi nilon có chất bột tinh thể màu trắng là ma túy tổng hợp của một người thanh niên tên S trọ ở khu vực Thị trấn M, huyện G, tỉnh Ninh Bình nhờ T mang xuống khu vực thành phố Ninh Bình để đưa hộ cho một người phụ nữ T không biết tên, tuổi, địa chỉ nhưng T chưa kịp đưa ma túy thì đã bị phát hiện bắt giữ. Tổ công tác tiến hành thu giữ và niêm phong số vật chứng do T giao nộp và đưa T về trụ sở Công an phường P, thành phố Ninh Bình lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, ngoài ra còn thu giữ của T 01 xe mô tô biển kiểm soát 35N1 - 265.14; 01 điện thoại hiệu Samsung J6; 01 thanh kiếm kim loại cán bằng gỗ dài khoảng 1m rồi bàn giao cho Đội ma túy cơ quan Cảnh sát điều tra công an thành phố Ninh Bình giải quyết theo thẩm quyền.

Tiến hành cân xác định khối lượng 02 viên nén hình tròn màu hồng; khối lượng chất bột tinh thể màu trắng ở trong 01 túi nilon thu của Hà Đức T, kết quả: 02 viên nén hình tròn màu hồng có khối lượng 0,655 gam kí hiệu M1; chất bột tinh thể màu trắng có khối lượng là 0,93 gam kí hiệu M2. Toàn bộ mẫu được gửi giám định, để xác định loại ma túy, khối lượng chất ma túy.

Tại bản Kết luận giám định số 216/KLGĐ - PC09 - MT ngày 23/06/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Ninh Bình kết luận: mẫu gồm 2 viên nén hình tròn mầu hồng là hỗn hợp ma túy gồm các loại Methamphetamine, MDMA, Ketamine; Mẫu chất dạng tinh thể mầu trắng là hỗn hợp ma túy gồm các loại Methamphetamine, Ketamine. Cơ quan giám định hoàn lại đối tượng giám định gồm mẫu chất bột màu hồng được nghiền ra từ hai viên nén hình tròn mầu hồng và mẫu chất dạng tinh thể màu trắng còn lại và toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong ban đầu.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Ninh Bình đã ra Quyết định trưng cầu giám định bổ sung số 165 ngày 23/6/2019 để trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình giám định bổ sung mẫu chất bột màu hồng là hỗn hợp chất ma túy gồm các loại Methamphetamine, MDMA, Ketamine và mẫu chất dạng tinh thể mầu trắng để xác định hàm lượng, khối lượng Methamphetamine, MDMA, Ketamine trong các mẫu giám định.

Tại bản Kết luận giám định số 217/ KLGĐ-PC09-MT ngày 24/06/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Ninh Bình kết luận: mẫu chất bột mầu hồng. Hàm lượng Methamphetamine là 2,5%; hàm lượng MDMA là 9,9%; hàm lượng Ketamine là 3,6%. Khối lượng từng loại: Methamphetamine là 0,0162 gam; MDMA là 0,0644 gam; Ketamine là 0,0234 gam. Mẫu chất dạng tinh thể màu trắng. Hàm lượng Methamphetamine là 10,1%; hàm lượng Ketamine là 14,6%. Khối lượng từng loại: Methamphetamine là 0,0905 gam; Ketamine là 0,1308 gam. Cơ quan giám định hoàn lại đối tượng giám định là mẫu chất bột màu hồng còn lại và mẫu chất dạng tinh thể mầu trắng còn lại cùng toàn bộ vỏ bao gói niêm phong.

Như vậy tổng khối lượng Methamphetamine, MDMA trong mẫu chất bột mầu hồng và mẫu chất dạng tinh thể màu trắng là 0,1711 gam; tổng khối lượng Ketamine trong mẫu chất bột mầu hồng và mẫu chất dạng tinh thể màu trắng là 0,1542 gam.

Tại bản cáo trạng số 133/CT-VKS ngày 04/10/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình đã truy tố bị cáo Hà Đức T ra trước Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình để xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị: Tuyên bố bị cáo Hà Đức T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt Hà Đức T từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tch thu tiêu hủy toàn bộ toàn bộ 01 (một) phong bì thư dán kín, niêm phong mặt sau có 03 hình dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Ninh Bình và chữ ký giáp lai các thành phần tham gia bên ngoài ghi dòng chữ: “Mẫu vật hoàn trả, số 217/KLGĐ/PC09-MT”.

Bị cáo không phải nộp án phí Hình sự sơ thẩm.

Bài phát biểu của người bào chữa: Tại phiên tòa người bào chữa cho bị cáo Hà Đức T xác định hành vi của bị cáo T bị Viện kiểm sát nhân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình truy tố về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1, Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ đúng pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng điểm r, s khoản 1, khoản 2, Điều 51 Bộ luật hình sự giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo T.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung vụ án, nhất trí với luận tội của Kiểm sát viên và bài bào chữa của Luật sư và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Ninh Bình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực đều hợp pháp.

[2] Bị cáo Hà Đức T đã thừa nhận: Hồi 01 giờ 45 phút ngày 20/6/2019 tại đường H, phố P, phường P1, thành phố Ninh Bình. Bị cáo Hà Đức T có hành vi cất giấu trái phép 0,1711 gam ma túy loại Methamphetamine, MDMA và 0,1542 gam ma túy loại Ketamine thì bị phát hiện bắt quả tang.

Bị cáo thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp, động cơ, mục đích phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng. Bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình sự.

Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu thu thập có tại hồ sơ vụ án thì đã có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Hà Đức T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy ”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma tuý.

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

......................................................

i) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này.

…………………………………………….

[3] Để cá thể hóa loại, mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo: Xét thấy hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến khách thể được luật hình sự bảo vệ việc khởi tố, truy tố và đưa bị cáo ra xét xử là cần thiết đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo; tự giác giao nộp gói ma túy cho công án, gia đình là hộ nghèo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm r, s khoản 1, khoản 2, Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Do đó cần có mức án tương xứng để răn đe phòng ngừa chung trong xã hội và cải tạo bị cáo trở thành người công dân tốt.

[4] Bị cáo còn phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 nhưng xét thấy bị cáo có hoàn cảnh khó khăn là hộ nghèo, do đó không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo là phù hợp.

[5] Về xử lý vật chứng:

Tch thu tiêu hủy toàn bộ 01 ( một) phong bì thư dán kín, niêm phong mặt sau có 03 hình dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Ninh Bình và chữ ký giáp lai các thành phần tham gia bên ngoài ghi dòng chữ: “Mẫu vật hoàn trả, số 217/KLGĐ/PC09-MT”.

Đi với 01 điện thoại di động hiệu Samsung J6 lắp sim 0946.945.504 thu giữ của Hà Đức T, quá trình điều tra T khai nhận để liên lạc cá nhân, không sử dụng để liên lạc với người thanh niên tên S, tên L, người phụ nữ, người đàn ông không quen biết để đưa hộ ma túy. Cơ quan điều tra đã tiến hành kiểm tra thông tin cuộc gọi đi đến, nội dung tin nhắn trong máy nhưng không có thông tin liên quan đến vụ án. Do không liên quan đến vụ án, cơ quan điều tra đã trả lại chiếc điện thoại trên cho bà Vi Thị T1 là mẹ của T được T ủy quyền nhận lại tài sản là có căn cứ.

Đi với chiếc điện thoại hiệu Samsung A50 T dùng để liên lạc với người thanh niên tên S, L, người phụ nữ S nhờ đưa hộ ma túy, người đàn ông gọi điện cho T, để lấy ma túy. T bỏ trong túi quần và điều khiển xe mô tô đi tiếp thì điện thoại bị rơi mất trên đường nên cơ quan điều tra không thu giữ được.

Đi với 01 chiếc xe mô tô hiệu Honda biển kiểm soát 35N1 - 265.14 thu giữ của Hà Đức T, quá trình điều tra T khai nhận được người thanh niên tên S trọ ở khu vực thị trấn M, cho mượn để sử dụng, cơ quan điều tra đã tra cứu chiếc xe mô tô nêu trên xác định đăng ký mang tên chị Bùi Thị T2 trú tại đội 6, xã G, huyện G1, tỉnh Ninh Bình. Cơ quan điều tra tiến hành triệu tập chị T2 để làm việc nhưng chị T2 không có mặt tại địa phương, chính quyền địa phương không biết chị T2 và gia đình đi đâu, làm gì. Do chưa xác định được nguồn gốc chiếc xe mô tô nêu trên nên cơ quan điều tra đã tách phần tài liệu liên quan đến chiếc xe mô tô biển kiểm soát 35N1 - 265.14 để xác minh làm rõ sau.

Đi với 01 thanh kiếm kim loại, cán bằng gỗ dài khoảng 1m thu giữ của T, T khai nhận là của một người bạn tên L quê ở tỉnh N ( là bạn T mới quen) để tại phòng trọ của người thanh niên tên S, L nhờ T mang thanh kiếm xuống khu vực trường Đại học H. Cơ quan điều tra đã bàn giao thanh kiếm thu giữ của T cho Đội cảnh sát quản lý hành chính trật tự xã hội Công an thành phố Ninh Bình để xử lý theo quy định.

Về nguồn gốc ma túy, T khai được một người thanh niên tên S nhờ cầm hộ xuống khu vực, thành phố Ninh Bình đưa cho một người phụ nữ T không biết tên tuổi, địa chỉ mà S đã hẹn từ trước. T không biết họ, tên đệm, năm sinh, địa chỉ cụ thể của S, không xác định được vị trí Phòng trọ của S thuê, số điện thoại của S lưu trong máy điện thoại Samsung A50 đã bị rơi mất. Do đó Cơ quan điều tra không đủ cơ sở để xác minh làm rõ người thanh niên tên S như T khai.

Đi với người phụ nữ T khai đã gọi điện liên lạc để đưa hộ ma túy cho S và người đàn ông đã gọi điện cho T để hẹn lấy ma túy T khai không biết tên tuổi, địa chỉ của những người này, số điện thoại của những người này lưu ở máy điện thoại hiệu Samsung A50 T đã làm rơi nên cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh làm rõ nhân thân lai lịch những người này.

[5] Về án phí, bị cáo được miễn không phải nộp án phí hình sự sơ thẩm do bị cáo thuộc diện hộ nghèo và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249, điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 Căn cứ Điều 106, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ luật hình sự;

áp dụng Điều 6; khoản 1 Điều 21, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

1.Tuyên bố bị cáo: Hà Đức T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

2. Xử phạt bị cáo: Hà Đức T 15( Mười năm) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 20 tháng 6 năm 2019 3. Về xử lý vật chứng:

Tch thu tiêu hủy toàn bộ 01 ( một) phong bì thư dán kín, niêm phong mặt sau có 03 hình dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Ninh Bình và chữ ký giáp lai các thành phần tham gia bên ngoài ghi dòng chữ: “Mẫu vật hoàn trả, số 217/KLGĐ/PC09-MT”. Cụ thể chi tiết vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/10/2019 giữa Công an thành phố Ninh Bình và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Ninh Bình.

4. Về án phí: bị cáo Hà Đức T không phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai, bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trưng hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

244
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 134/2019/HSST ngày 07/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:134/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về