Bản án 126/2017/HSST ngày 22/9/2017 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 16/2017/HSST NGÀY 2/09/2017 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 22 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở ủy ban nhân dân xã Hội Nghĩa, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 107/2017/HSST ngày 17 tháng 8 năm 2017 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 131/2017/HSST-QĐ ngày 11 tháng 9 năm 2017 đối với bị cáo:

Đặng Quốc Tr (tên gọi khác Thảo Ma), sinh năm 1985, tại Bình Dương; nơi đăng ký NKTT: Ấp 3, xã HNg, thị xã TU, tỉnh Bình Dương; dân tộc: Kinh; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hoá: 5/12; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 13/3/2008, bị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xử phạt 06 năm 06 tháng tù, về tội “Cố ý gây thương tích” tại bản án số 07/2008/HSST, đã chấp hành xong bản án. Ngày 08/4/2013, bị cáo bị Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương ban hành hành quyết định số 891/QĐ – UBND, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc 24 tháng về hành vi gây rối trật tự công cộng; con ông Đặng Quốc B, sinh năm 1959 và bà Nguyễn Thị Ng, sinh năm 1958; bị cáo chưa có vợ con; bị bắt tạm giam từ ngày 14/02/2017 cho đến nay; bị cáo có mặt.

Người bị hại:

- Ông Thái Văn Q, sinh năm 1992; địa chỉ: Nhà trọ Anh Minh - Ấp 2, xã HNg, thị xã TU, tỉnh Bình Dương; có mặt.

- Ông Nguyễn Văn Tr1, sinh năm 1993; địa chỉ: Tổ 5, ấp ChV, xã G D, huyện PQ, tỉnh Kiên Giang; vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ông Võ Văn Th, sinh năm 1986; địa chỉ: Ấp 5, xã HGh, thị xã TU, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

- Bà Nguyễn Thị Nga, sinh năm 1958; địa chỉ: Ấp 3, xã HGh, thị xã TU, tỉnh Bình Dương; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ông Nguyễn Văn Tr1 và ông Trần Thanh T là bạn bè quen biết nhau và cùng tạm trú tại ấp 4, xã Hội Nghĩa, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.

Khoảng 21 giờ 00 phút, ngày 13/02/2017 ông T và ông Tr1 đến nhà bạn của ông T là Đặng Quốc Tr để trả một xe mô tô kéo rơ móc tự chế cho Tr do ông T đã mượn trước đó. Đến nơi, ông Tr1 nhìn thấy tại sân nhà của Tr có một con chó có đặc điểm giống con chó của ông Tr1 nuôi đã bị thất lạc khoảng một tháng nên ông Tr1 cho rằng đây là con chó của mình nên xin Tr cho nhận lại nuôi nhưng Tr không đồng ý. Lúc này, ông Tr1 vẫn đang ôm con chó và xin Tr cho nhận lại nuôi thì Tr liền nói “Mày có bỏ chó xuống không”. Nghe vậy, ông Tr1 sợ nên khom người đặt con chó xuống đất, ông Tr1 chưa kịp đứng thẳng người lên thì Tr liền nhặt một đoạn gỗ dài khoảng 85 cm, đường kính 3,5 cm có sẵn trên xe mô tô kéo rơ móc tự chế, sau đó Tr đứng bên hông trái của ông Tr1, cách ông Tr1 khoảng 01 mét, cầm đoạn gỗ bằng hai tay đưa lên cao Ngang đầu của Tr rồi đánh liên tục hai cái trúng vào vùng phía sau đầu của ông Tr1 gây thương tích, do đoạn gỗ bị gãy nên Tr ném tại hiện trường rồi dùng chân pH đạp một cái trúng vào vùng hông bên trái của ông Tr1 làm ông Tr1 mất thăng bằng té ngã úp mặt xuống nền đất. Ông Tr1 xoay người nằm ngửa lại thì Tr tiếp tục nhặt một cây xà beng, bằng kim loại, có một đầu nhọn và một đầu dẹp, dài 1,1 mét, đường kính 2,5 cm có sẵn trên xe mô tô kéo rơ móc tự chế, Tr cầm bằng hai tay đi lại đứng bên hông trái ông Tr1, cách ông Tr1 khoảng 01 mét, đưa cây xà beng lên qua khỏi đầu của Tr rồi đánh một cái trúng vào vùng ngực của ông Tr1 gây thương tích. Ông Nguyễn Mậu H ở cạnh nhà Tr và ông T đến can ngăn, ông H dùng tay giật cây xà beng Tr đang cầm, còn ông T thì ôm Tr lại ngăn không cho Tr tiếp tục đánh ông Tr1. Sau đó, ông T đưa ông Tr1 đi cấp cứu tại Phòng khám đa khoa Tâm Phúc thuộc xã Hội Nghĩa.

Do còn bực tức ông Tr1 nên Tr đi vào nhà lấy một con dao, bằng kim loại, cán gỗ, phần cán dao dài 10 cm, lưỡi dao dài 20 cm có bản rộng 07 cm để trên baga xe mô tô biển số 61U1 – 8404, sau đó điều khiển xe mô tô này đến phòng khám Tâm Phúc tìm ông Tr1 để tiếp tục đánh ông Tr1. Đến nơi, Tr nhìn thấy ông Tr1 đã được bác sĩ băng bó vết thương, đồng thời ông T gặp và khuyên can Tr đi về nên Tr điều khiển xe mô tô 61U1 – 8404 đi về nhà.

Khi Tr điều khiển xe mô tô 61U1 – 8404 đến đoạn đường thuộc ấp 4, xã Hội Nghĩa thì gặp ông Thái Văn Q đang điều khiển xe mô tô lưu thông cùng chiều với Tr, khi xe ông Q chạy song song với xe Tr thì ông Q quay mặt nhìn về phía Tr nên Tr liền điều khiển xe đuổi theo ông Q. Khi Tr đuổi kịp và chạy song song với xe ông  Q, Tr nói “Ê mày thích đánh lộn không tao với mày đánh”, ông Q không trả lời và tiếp tục điều khiển xe được khoảng 50 mét thì dừng xe vào lề đường để gọi điện thoại cho người thân. Lúc này, Tr đuổi theo kịp xe ông Q và dừng xe song song bên hông trái xe của ông Q, cách xe của ông Q khoảng 01 mét, Tr bước xuống xe và lấy con dao mang theo, Tr cầm bằng hai tay, đưa dao lên cao Ngang tầm đầu của Tr và chém từ trên xuống vào người ông Q, ông Q đang ngồi trên xe gọi điện thoại thấy vậy liền xoay người sang trái tránh và đưa tay phải lên đỡ thì bị Tr chém trúng một cái gây thương tích vùng khuỷu tay phải, Tr tiếp tục chém ông Q thì ông Q đưa tay trái lên đỡ thì bị trúng một nhát gây thương tích ở bàn tay trái. Khi đó, ông Q bị mất thăng bằng nên bị ngã xuống đường, ông Q liền đứng dậy bỏ chạy nên Tr không tiếp tục chém ông Q được. Sau đó Tr điều khiển xe chạy về nhà, còn ông Q đi nhờ người thân chở đi bệnh viện cấp cứu.

Cùng ngày, ông Tr1 và ông Q nộp đơn đến Công an xã Hội Nghĩa yêu cầu xử lý hành vi của Đặng Quốc Tr về việc gây thương tích đối với ông Tr1 và ông  Q. Công an xã Hội Nghĩa đến hiện trường và lập biên bản thu giữ vật chứng gồm: 01 (một) đoạn gỗ dài 85 cm, đường kính 3,5cm; 01 (một) cây xà beng, bằng kim loại, có một đầu nhọn và một đầu dẹp, dài 1,1m, đường kính 2,5cm; 01 (một) con dao, bằng kim loại, cán gỗ, phần cán dao dài 10 cm, lưỡi dao dài 20cm có bản rộng 07cm; 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Max (YMH), màu tím, biển số 61U1 – 8404, số khung 026844, số máy 044844; 01 (một) mũ bảo hộ bằng nhựa có màu vàng, mặt trước mũ có dòng chữ Genuine, mặt sau bị bể có nhiều vết màu đỏ thẩm (nghi là máu);  01 (một) nón kết có màu xanh đen.

Công an xã Hội Nghĩa chuyển hồ sơ vụ việc đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên xử lý theo thẩm quyền.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 43/2017/GĐPY ngày 28/02/2017 của trung tâm pháp y - Sở Y tế tỉnh Bình Dương, kết luận thương tật của ông Thái Văn Q như sau: “Vết thương khuỷu pH 4 x 0,3 cm, sẹo lành; vết thương đứt gần lìa dọc ngón III bàn tay trái 6 x 0,3 cm, đã mổ cắt lọc khâu vết thương, sẹo lành. Gãy nhiều mảnh đốt xa ngón III, còn hạn chế vận động các khớp liên đốt ngón III tay trái; gãy ngón IV bàn tay trái, đã cal”. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 15%.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 40/2017/GĐPY ngày 21/02/2017 của Tr tâm pháp y - Sở Y tế tỉnh Bình Dương, kết luận thương tật của ông Nguyễn Văn Tr1 như sau: “Vết thương chẩm trái 1,5 x 0,3cm, sẹo lành; sưng bầm hốc mắt phải, đau ngực đã lành”. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 02%.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định pháp y của trung tâm giám định pháp y nêu trên.

Về phần dân sự: Ông Thái Văn Q yêu cầu Đặng Quốc Tr bồi thường số tiền 110.513.160 đồng bao gồm chi phí điều trị thương tích, thu nhập thực tế bị mất trong thời gian điều trị thương tích, tổn thất tinh thần, bị cáo Tr chưa bồi thường.

Ông Nguyễn Văn Tr1 không yêu cầu bị cáo Tr bồi thường về phần dân sự.

Xe mô tô nhãn hiệu Max (YMH), màu tím, biển số 61U1 – 8404, số khung 026844, số máy 044844 do ông Nguyễn Phước Th đứng tên trong giấy đăng ký xe. Tháng 01/2017, ông Th bán xe này cho ông Võ Văn Th nhưng không làm thủ tục sang tên. Ông Th và  Tr là bạn  bè quen  biết nên ngày 13/02/2017 ông Th cho Tr mượn làm phương tiện đi lại, ông Th không biết Tr sử dụng xe này đi gây thương tích ông Tr1 và ông Q.

Bản cáo trạng số 109/QĐ-KSĐT ngày 15/8/2017 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên truy tố bị cáo Đặng Quốc Tr về tội “Cố ý gây thương tích” theo  Khoản 2 Điều 104 của Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh như Cáo trạng và xác định bị cáo có nhân thân xấu. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bị cáo sau phạm tội bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm p Khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 2 Điều 104; Điểm p Khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Đặng Quốc Tr mức hình phạt từ  03 năm tù đến 03 năm 06 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, người bị hại ông Q yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 35.513.160 đồng bao gồm chi phí điều trị thương tích và tiền mất thu nhập trong thời gian điều trị thương tích. Bị cáo đồng ý bồi thường nên đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự, Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên:

- Tịch thu, tiêu huỷ 01 đoạn gỗ hình trụ tròn dài 85cm, đường kính 3,5cm; 01 cây xà beng bằng kim loại, dài 110cm, một đầu nhọn, một đầu dẹp, trên thanh sắt có nhiều sọc Ngang đều nhau; 01 con dao bằng kim loại, cán gỗ, cán dao dài khoảng 10cm, lưỡi dao dài khoảng 20cm, bề rộng lưỡi dao khoảng 07cm.

- Trả lại cho ông Võ Tr Th 01 xe mô tô nhãn hiệu Max (YMH), màu tím, biển số 61U1 – 8404, số khung 026844, số máy 044844.

- Trả lại cho Nguyễn Văn Tr1 01 mũ bảo hộ bằng nhựa có màu vàng, mặt trước mũ có dòng chữ Genuine; 01 nón kết có màu xanh đen.

Tại phiên tòa, bị cáo Tr đã khai nhận hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng đã truy tố. Về phần trách nhiệm dân sự, bị cáo đồng ý bồi thường cho người bị hại ông Thái Văn Q số tiền 35.513.160 đồng.

Người bị hại ông Thái Văn Q yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 35.513.160 đồng, bao gồm chi phí điều trị thương tích là 5.513.160 đồng và tiền thu nhập thực tế bị mất trong thời gian 03 tháng điều trị thương tích là 30.000.000 đồng. Về trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Nga trình bày: Con dao bằng kim loại, cán gỗ, cán dao dài khoảng 10cm, lưỡi dao dài khoảng 20cm, bề rộng lưỡi dao khoảng 07cm là của bà Nga, bị cáo sử dụng gây thương tích cho người bị hại, bà Nga không biết. Bà Nga không có yêu cầu nhận lại con dao này.

Bị cáo nói lời sau cùng bị cáo đã biết lỗi, bị cáo đã sai đề nghị Hội đồng xét xử xem xét mức hình phạt phù hợp cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo, người bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo Đặng Quốc Tr tại phiên toà thống nhất với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, trước sau thống nhất với nhau và phù hợp với lời khai của người bị hại, lời khai của người làm chứng về thời gian, địa điểm, quá trình thực hiện hành vi phạm tội cũng như thương tích thực tế của người bị hại. Từ  những  chứng  cứ  nêu  trên,  Hội đồng  xét  xử có  căn cứ kết luận: Ngày 13/02/2017, bị cáo Đặng Quốc Tr đã có hành vi dùng cây gỗ, cây xà beng bằng kim loại, dao bằng kim loại đánh và chém gây thương tích cho ông Thái Văn Q với tỷ lệ thương tật là 15%, ông Nguyễn Văn Tr1 với tỷ lệ thương tật là 2%. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tình tiết định khung là “dùng hung khí nguy hiểm”, “phạm tội đối với nhiều người” và “có tính chất côn đồ” được quy định tại Điểm a, c, i Khoản 1 Điều 104 Bộ luật Hình sự nên đã đủ yếu yếu tố cấu Th tội cố ý gây thương tích, tội phạm và hình phạt quy định tại Khoản 2 Điều 104 Bộ luật Hình sự. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên truy tố đối với bị cáo Đặng Quốc Tr về tội cố ý gây thương tích là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sức khỏe của người khác một cách trái pháp luật, gây mất trật tự xã hội tại địa phương. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật hình sự và sẽ bị trừng trị, hiểu rõ khi dùng dao bằng kim loại, cây gỗ, cây xà beng bằng kim loại đánh và chém vào những vị trí trên cơ thể của người bị hại thì khả năng gây tổn hại sức khỏe cho người bị hại là rất cao. Bị cáo và người bị hại ông Tr1, ông Q không có mâu thuẫn gì nhưng bị cáo lại gây thương tích cho ông Tr1, ông Q thể hiện tính xem thường pháp luật. Bị cáo từng bị kết án về tội cố ý gây thương tích, cho thấy hình phạt của bản án trước đây chưa đủ răn đe, giáo dục bị cáo. Do đó, cần có mức hình phạt tương xứng với hành vi của bị cáo để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cần xem xét toàn diện về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, bị cáo từng bị kết án về tội cố ý gây thương tích, tuy đã được xóa án tích nhưng bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi cố ý gây thương tích. Ngày 08/4/2013, bị cáo bị Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương ban hành hành quyết định số 891/QĐ – UBND đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc 24 tháng về hành vi gây rối trật tự công cộng nên khi quyết định hình phạt cũng cần cân nhắc đối với nhân thân của bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo sau khi phạm tội có thái độ Th khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm p Khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

[4] Mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên đề nghị đối với bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ hành phạm tội mà bị cáo đã thực hiện.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo thực hiện hành phạm tội gây thương tích cho người bị hại nên bị cáo phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị hại theo quy định tại Điều 584 và 590 Bộ luật dân sự năm 2015. Bị cáo đồng ý bồi thường thiệt hại cho người bị hại ông Thái Văn Q số tiền 35.513.160 đồng nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[6] Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 (một) đoạn gỗ hình trụ tròn dài 85cm, đường kính 3,5cm; 01 (một) cây xà beng bằng kim loại, dài 110cm, một đầu nhọn, một đầu dẹp, trên thanh sắt có nhiều sọc Ngang đều nhau; 01 (một) con dao bằng kim loại, cán gỗ, cán dao dài khoảng 10cm, lưỡi dao dài khoảng 20cm, bề rộng lưỡi dao khoảng 07cm là vật chứng thu giữ không còn giá trị sử dụng cần tịch thu, tiêu hủy.

Xe mô tô nhãn hiệu Max (YMH), màu tím, biển số 61U1 – 8404, số khung 026844, số máy 044844, là xe của ông Võ Văn Th, ông Th cho bị cáo mượn xe, không biết bị cáo dùng làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội nên giao trả lại cho ông Th.

Một mũ bảo hộ bằng nhựa có màu vàng, mặt trước mũ có dòng chữ Genuine; 01 nón kết có màu xanh đen là tài sản của ông Nguyễn Văn Tr1 nên giao trả lại cho ông Tr1.

[7] Về án phí: Bị cáo phạm tội và bị kết án, bị cáo phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Đặng Quốc Tr phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Áp dụng Khoản 2 Điều 104; Điểm p Khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự,

Xử phạt bị cáo Đặng Quốc Tr 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 14/02/2017.

2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 42 Bộ luật Hình sự; Điều 584, Điều 590 Bộ luật Dân sự năm 2015. Buộc bị cáo Đặng Quốc Tr bồi thường cho ông Thái Văn Q số tiền 35.513.160 (ba mươi lăm triệu năm trăm mười ba nghìn một trăm sáu mươi nghìn đồng) bao gồm chi phí điều trị thương tích và tiền thu nhập thực tế bị mất trong thời gian điều trị thương tích.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự, Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên:

Tịch thu, tiêu huỷ 01 (một) đoạn gỗ hình trụ tròn dài 85 cm, đường kính 3,5cm; 01 (một) cây xà beng bằng kim loại, dài 110cm, một đầu nhọn, một đầu dẹp, trên thanh sắt có nhiều sọc Ngang đều nhau; 01 (một) con dao bằng kim loại, cán gỗ, cán dao dài khoảng 10 cm, lưỡi dao dài khoảng 20cm, bề rộng lưỡi dao khoảng 07cm.

Trả lại cho ông Võ Văn Th 01 xe mô tô nhãn hiệu Max (YMH), màu tím, biển số 61U1 – 8404, số khung 026844, số máy 044844.

Trả lại cho ông Nguyễn Văn Tr1 01 (một) mũ bảo hộ bằng nhựa có màu vàng, mặt trước mũ có dòng chữ Genuine; 01 (một) nón kết có màu xanh đen.

(Thể hiện tại biên bản giao, nhận vật chứng ngày 18/8/2017 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương).

2. Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 23, Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban  thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Đặng Quốc Tr phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 1.775.657 (một triệu bảy trăm bảy mươi lăm nghìn sáu trăm năm mươi bảy) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng người vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

263
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 126/2017/HSST ngày 22/9/2017 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:126/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về