Bản án 124/2019/HNGĐ-ST ngày 22/11/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 124/2019/HNGĐ-ST NGÀY 22/11/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 22 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An gianng xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 319/2019/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 5 năm 2019 về việc tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 255/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 10 năm 2019, Quyết định hoãn phiên tòa số: 219/2019/QĐST-HNGĐ ngày 05 tháng 11 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Châu Thị H, sinh năm 1975.

Địa chỉ: Số 722/10B, k Đ P, p Đ X, t p L X, tỉnh  A G. (Có đơn xin vắng mặt)

- Bị đơn: Ông Phann Minh T, sinh năm 1972.

Địa chỉ: Số 722/10B, k Đ P, p Đ X, t p L X, tỉnh  AG. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 15/12/2018 và đơn khởi kiện bổ sung ngày 21/5/2019 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Châu Thị H trình bày:

Về quA hệ hôn nhân và gia đình: Bà H và ông T do tìm hiểu rồi quen biết nhau, sau đó tiến đến hôn nhân và tổ chức lễ cưới vào tháng 08/1995, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Mỹ Xuyên, thành phố Long Xuyên, tỉnh An gianng theo giấy chứng nhận kết hôn số 103/MX, quyển số 0I/95 đăng ký vào ngày 19/12/1995, hôn nhân lần thứ nhất của ông bà. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc đến giữa tháng 12/2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quA điểm, xung đột xảy ra thường xuyên, ông T không chung tay xây dựng gia đình cùng bà H mà ngược lại ông T thường ham mê cờ bạc, không làm tròn bổn phận của người chồng trong gia đình. Bà H đã cố gắng hàn gắn tình cảm gia đình, cho ông T cơ hội để sửa đổi nhưng vẫn không có kết quả nên vợ chồng đã ly thân từ tháng 12/2018 cho đến nay. Nay bà H nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn ngày thêm trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Bà yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết cho bà được ly hôn với ông T.

Về quan hệ con chung: Bà Châu Thị H và ông Phann Minh T có hai con chung tên Phann Tuấn Anh, sinh ngày 14/7/1996 và Phann Tuấn Anh, sinh ngày 22/8/2003. Khi ly hôn bà H yêu cầu trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên Phan Tuấn A, sinh ngày 22/8/2003, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung.

Đối với Phan Tuấn Ah, sinh ngày 14/7/1996 con chung đã thành niên có khả năng lao động và tự lập được không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về quA hệ tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Phann Minh T vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án; không nộp cho Tòa án văn bản trình bày ý kiến qua yêu cầu ly hôn của bà H.

Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án:

Nguyên đơn bà Châu Thị H vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bà có đơn xin xét xử vắng mặt đề ngày 01/11/2019.

Bị đơn ông Phann Minh T vắng mặt, không nộp văn bản trình bày ý kiến cũng như các tài liệu, chứng cứ cho Tòa án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật của thẩm phán, thành phần Hội đồng xét xử cũng như xác định quan hệ tranh chấp, việc chấp hành pháp luật của người tham gian tố tụng trong vụ án đúng theo qui định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Về nội dung tr chấp: Bà Châu Thị H xin ly hôn với ông Phann Minh T. Bà H trình bày trong quá trình chung sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn và sống ly thân từ tháng 12/2018 cho đến nay. Nhận thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà H yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông T. Ngoài ra, Tòa án cũng nhiều lần cũng tổ chức hòa giải nhưng bà H vẫn luôn kiên quyết xin ly hôn. Do đó, yêu cầu khởi kiện của bà H là có cơ sở để chấp nhận theo quy định tại Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

Về quan hệ con chung: Bà H có yêu cầu được chăm sóc nuôi dưỡng con chung chưa thành niên của bà và ông T là cháu Phann Tuấn A, sinh ngày 22/8/2003. Ông T không có ý kiến đối với yêu cầu của bà H nên đề xuất giano con chung cho bà H tiếp tục, chăm sóc, nuôi dưỡng để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho cháu Tuấn A là phù hợp tại Điều 58 Điều 81 Điều 82 Điều 83 luật Hôn nhân và gia đình.

Về chi phí cấp dưỡng nuôi con chung do bà H không có yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.

Đối với Phann Tuấn Anh, sinh ngày 14/7/1996 đã thành niên có khả năng lao động và tự lập được không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng. Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên nhận định.

[1] Về thủ tục tố tụng: Bà H tranh chấp ly hôn với ông T, tranh chấp được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An gianng theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên thụ lý và giải quyết.

[2] Quá trình giải quyết vụ án, sau khi nhận được Quyết định đưa vụ án ra xét xử, bà Châu Thị H có đơn lập ngày 01/11/2019 đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt bà do bận công việc.

Mặc dù đã được Tòa án tống đạt, niêm yết hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, giấy triệu tập đối với phiên tòa được mở lần thứ nhất và Quyết định hoãn phiên tòa đối với phiên tòa hôm nay nhưng ông T vẫn vắng mặt không có lý do và không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của bà H. Đồng thời Tòa án tiến hành biện pháp thu thập chứng cứ để xác minh tình trạng cư trú của ông Phan Minh T và được công A phường Đông Xuyên, thành phố Long Xuyên, tỉnh An gianng cung cấp thông tin: Ông Phan Minh T, sinh năm 1972 có đăng ký hộ khẩu thường trú tại Số 722/10B, khóm Đông Phú, phường Đông Xuyên, thành phố Long Xuyên, tỉnh An gianng. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 228, Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà Châu Thị H và ông Phan Minh T.

[3] Về hôn nhân: Hôn nhân giữa bà H và ông T dựa trên cơ sợ tự nguyện của đôi bên, có tiến hành làm thủ tục đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân phường Mỹ Xuyên, thành phố Long Xuyên, tỉnh An gianng cấp giấy chứng nhận kết hôn số 103/MX, quyển số 0I/95 ngày 19/12/1995 nên được pháp luật công nhận là vợ chồng theo quy định tại Điều 8 và Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Tuy nhiên, quá trình chung sống ph át sinh nhiều mâu thuẫn, bà H trình bày nguyên nhân mâu thuẫn xuất phát từ sự bất đồng quA điểm, thiếu sự quA tâm, chia sẻ, cảm thông nhau trong đời sống vợ chồng trong một khoảng thời gian dài, không hàn gắn được nên vợ chồng đã ly thân từ tháng 12/2018 cho đến nay. Nhận thấy hôn nhân không còn mang lại hạnh phúc nên bà H yêu cầu được ly hôn với ông T.

Xét thấy, mâu thuẫn trong cuộc sống hôn nhân của bà H và ông T đã kéo dài một thời gian. Từ khi ly thân, vợ chồng không thường xuyên gặp gỡ, chăm sóc lẫn nhau, cuộc sống chung không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Nếu tiếp tục duy trì cuộc hôn nhân này cũng không đem lại hạnh phúc cho cả hai. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Châu Thị H.

[4] Về nuôi con chung: Bà H và ông T có 02 (hai) con chung tên Phan Tuấn Ah, sinh ngày 14/7/1996 và Phan Tuấn A, sinh ngày 22/8/2003. Hiện tại, hai con chung đang sinh sống cùng bà H. Tại biên bản lấy lời khai của cháu Phan Tuấn A ngày 28/8/2019 thể hiện cháu Phan Tuấn A có nguyện vọng muốn được tiếp tục sống chung với mẹ. Do đó, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển tốt về thể chất, tinh thần cũng như đảm bảo cho việc học tập của cháu Phan Tuấn A, Hội đồng xét xử quyết định chấp nhận yêu cầu của bà H giano cháu Phan Tuấn A, sinh ngày 22/8/2003 cho bà H tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con chung, đây là nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con. Tuy nhiên do bà H không có yêu cầu ông T phải cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với Phan Tuấn Ah, sinh ngày 14/7/1996 đã trưởng thành có khả năng lao động và tự lập được nên Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Bà H trình bày giữa bà và ông T không có tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét đến. Về nợ chung bà H trình bày không có nên Hội đồng xét xử không xét đến. Nếu sau này có tranh chấp sẽ giải quyết thành một vụ án khác.

[6] Về án phí: Bà Châu Thị H là nguyên đơn nên phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 143, khoản 4 Điều 147, Điều 179, Điều 186, Điều 227, Điều 228, khoản 1 Điều 273, Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Điều 9, Điều 51, khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81, khoản 3 Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Xét xử vắng mặt nguyên đơn bà Châu Thị H và ông Phan Minh T.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân:

Cho ly hôn giữa bà Châu Thị H và ông Phan Minh T.

2. Về con chung:

2.1 giano cho bà Châu Thị H tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục hai chung tên Phan Tuấn A, sinh ngày 22/8/2003.

Ông Phan Minh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung do bà H không có yêu cầu.

Đối với Phan Tuấn Ah đã trưởng thành có khả năng lao động và tự lập được nên Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét.

4. Về án phí: Bà Châu Thị H phải chịu 300.000 đồng (ban trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm. Nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm đã nộp 300.000 đồng (ban trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0003090 ngày 21 tháng 5 năm 2019 của Chi Cục thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên, tỉnh An gianng. Bà H đã nộp đủ.

5. Về quyền kháng cáo: Bà Châu Thị H và ông Phan Minh T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án hoặc được niêm yết theo quy định.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

249
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 124/2019/HNGĐ-ST ngày 22/11/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:124/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về