Bản án 12/2018/HSST ngày 21/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẠM TẤU, TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 12/2018/HSST NGÀY 21/06/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 6 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trạm Tấu, tỉnh Yên Bái. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 12/2018/TLST-HS ngày 24 tháng 5 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2018/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 6 năm 2018, đối với bị cáo:

Hờ A T, sinh năm 1977 tại xã B, huyện T, tỉnh Yên Bái; nơi cư trú thôn T, xã B, huyện T, tỉnh Y; nghề nghiệp trồng trọt; trình độ học vấn 9/12; dân tộc Mông; giới tính nam; tôn giáo không; quốc tịch Việt Nam; con ông Hờ A L (đã chết) và con bà Lý Thị P (đã chết); có vợ là Thào Thị V và 03 con; tiền án, tiền sự không; bị bắt tạm giữ từ ngày 28-02-2018 đến ngày 01-3-2018 được thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; “Có mặt”.

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị Duy - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Yên Bái; “Có mặt”.

- Người có quyền lợi liên quan: Thào Thị V, sinh năm 1977; nơi cư trú thôn T, xã B, huyện T, tỉnh Y; “Có mặt”.

- Người chứng kiến: Anh Hờ A R, sinh năm 1974; nơi cư trú thôn Đ, xã X, huyện T, tỉnh Y; “Vắng mặt”.

- Người phiên dịch tiếng mông: Ông Hờ A Hồ - Cán bộ Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trạm Tấu, tỉnh Yên Bái; “Có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 15 giờ 50 phút, ngày 28-02-2018 tại thôn Đầu Cầu, xã Xà Hồ, huyện Trạm Tấu, tỉnh Yên Bái; Công an huyện Trạm Tấu bắt quả tang Hờ A T có hành vi tàng trữ trái phép trong chiếc tất đang đi ở chân trái, 01 gói nilon bên trong có chứa chất nhựa dẻo màu nâu đen. T khai nhận là thuốc phiện, bị cáo đã mua của một người phụ nữ dân tộc Mông với giá 150.000 đồng tại thôn Chống Khua, xã Xà Hồ; mục đích bị cáo mua thuốc phiện về để sử dụng.

Tại bản kết luận giám định số: 63/GĐMT ngày 06-3-2018 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Yên Bái đã kết luận: Chất nhựa dẻo màu nâu đen thu giữ của Hờ A T có khối lượng 1,94 gam (một phảy chín mươi tư gam) là ma túy; là thuốc phiện.

Bản cáo trạng số: 12/CT-VKS-TT ngày 23-5-2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trạm Tấu, truy tố Hờ A T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Hờ A T khai nhận toàn bộ hành vi mình đã thực hiện, vào ngày 28-2-2018.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trạm Tấu giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo; đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo Hờ A T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Hờ A T từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tù.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 2 và khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: 01 (một) chiếc điện thoại di động màu đen, nhãn hiệu FPT đã cũ, đã qua sử dụng.

+ Tịch thu tiêu hủy: 02 (hai) chiếc tất màu đen đã cũ; 02 (hai) chiếc giày ngắn cổ, họa tiết giàn gi, chất liệu cao su đã cũ; 01 (một) vỏ phong bì đã mở niêm phong; 01 (một) mảnh nilon màu xanh; 01 (một) bộ bàn đèn hút thuốc phiện tự tạo.

+ Trả lại cho bị cáo Hờ A T: 01 (một) giấy phép lái xe số AL475148, mang tên Hờ A T.

+ Trả lại cho Thào Thị V: 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu HANA MOTO, mang biển kiểm soát 21V2-5544, màu sơn đen, xe đã cũ, đã qua sử dụng; 01 (một) đăng ký xe mô tô số 0018356, mang tên Lê Văn T.

- Bị cáo và người có quyền lợi liên quan không có ý kiến tranh luận gì.

- Người bào chữa cho bị cáo trình bày lời bào chữa: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, nhận thức pháp luật còn hạn chế; trước khi phạm tội bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; sau khi phạm tội thành khẩn khai báo. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hờ A T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Hờ A T từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về vật chứng và tài sản bị tạm giữ: Nhất trí với đề nghị của Kiểm sát viên.

- Bị cáo không có ý kiến tranh luận bổ sung gì.

- Lời nói sau cùng của bị cáo: Đã biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật hình sự, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt, để sớm được trở về với gia đình và hòa nhập với xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Trạm Tấu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trạm Tấu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Người bào chữa, bị cáo không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai tại phiên toà của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Vào hồi 15 giờ 50 phút, ngày 28-2-2018 tại thôn Đầu Cầu, xã Xà Hồ, huyện Trạm Tấu, tỉnh Yên Bái; Hờ A T có hành vi cất giữ bất hợp pháp trong chiếc tất đang đi ở chân trái 1,94 gam (một phảy chín mươi tư gam) thuốc phiện, với mục đích để sử dụng.

Bị cáo Hờ A T là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức rõ việc cất giữ bất hợp pháp thuốc phiện là vi phạm pháp luật hình sự và biết được tác hại của ma tuý đối với sức khỏe con người và đời sống xã hội, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện, nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy của bản thân. 1,94 gam thuốc phiện mà bị cáo T tàng trữ đã đủ về lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý của bị cáo T thực hiện, đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách phòng, chống và kiểm soát ma túy của Nhà nước; tiếp tay cho tệ nạn ma túy gia tăng; ảnh hưởng đến sức khỏe con người; là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác và xâm hại trật tự an toàn xã hội.

[3] Từ những căn cứ trên đã có đủ cơ sở khẳng định hành vi của bị cáo Hờ A T thực hiện đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy" tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự; lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, nên cần được chấp nhận.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Ngay sau khi bị bắt, bị cáo T đã thành khẩn khai báo, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; khi lượng hình Hội đồng xét xử xem xét để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Về nhân thân: Bị cáo T là người thường xuyên sử dụng chất ma túy, nên xác định bị cáo là người có nhân thân không tốt tại địa phương.

[6] Từ những đánh giá về tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của các bị cáo như đã phân tích ở trên, cần áp dụng hình phạt tù, cách ly bị cáo T ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, mới đủ thời gian, điều kiện để bị cáo cai nghiện, đồng thời giáo dục riêng bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[7] Tại biên bản xác minh về tài sản cũng như tại phiên tòa xác định bị cáo T không có tài sản gì, thuộc diện hộ nghèo của xã; nên, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Về vật chứng và tài sản tạm giữ:

Đối với: 1,94 gam thuốc phiện, cơ quan điều tra đã sử dụng hết vào việc giám định, nên không đặt ra để giải quyết.

Đối với: 01 (một) chiếc điện thoại di động màu đen, nhãn hiệu FPT đã cũ, đã qua sử dụng. Đây là phương tiện để bị cáo liên lạc trong quá trình phạm tội, nên cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Đối với: 02 (hai) chiếc tất màu đen đã cũ; 02 (hai) chiếc giày ngắn cổ, họa tiết giàn gi, chất liệu cao su đã cũ; 01 (một) vỏ phong bì đã mở niêm phong; 01 (một) mảnh nilon màu xanh; 01 (một) bộ bàn đèn hút thuốc phiện tự tạo. Đây là những vật không có giá trị sử dụng, nên cần tịch thu tiêu hủy, theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Đối với: 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu HANA MOTO, mang biển kiểm soát 21V2-5544, màu sơn đen, xe đã cũ, đã qua sử dụng; 01 (một) đăng ký xe mô tô số 0018356, mang tên Lê Văn T. Đây là tài sản và giấy tờ đi liền với tài sản, được xác định là tài sản chung của vợ chồng bị cáo T, việc bị cáo sử dụng xe máy làm phương tiện phạm tội, vợ bị cáo không biết, không có lỗi. Nên trả tài sản cho gia đình bị cáo, cụ thể là trả cho vợ bị cáo T là Thào Thị V, theo quy định tại khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự.

Đối với: 01 (một) giấy phép lái xe số AL475148, mang tên Hờ A T, là giấy tờ tùy thân của bị cáo, không liên quan đến tội phạm, nên cần trả lại cho bị cáo, theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

[9] Về án phí và các vấn đề khác:

Đối với người phụ nữ dân tộc Mông là người T khai đã bán thuốc phiện cho T. Cơ quan điều tra không xác minh được, nên không có căn cứ để xử lý.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm; bị cáo, người có quyền lợi liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hờ A T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Hờ A T 01 ( một) năm 03 (ba) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án, được trừ đi 02 (hai) ngày tạm giữ.

3. Về vật chứng và tài sản bị tạm giữ: Áp dụng điểm a khoản 1 và khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; các điểm a, c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

+ Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: 01 (một) chiếc điện thoại di động màu đen, nhãn hiệu FPT đã cũ, đã qua sử dụng.

+ Tịch thu tiêu hủy: 02 (hai) chiếc tất màu đen đã cũ; 02 (hai) chiếc giày ngắn cổ, họa tiết giàn gi, chất liệu cao su đã cũ; 01 (một) vỏ phong bì đã mở niêm phong; 01 (một) mảnh nilon màu xanh; 01 (một) bộ bàn đèn hút thuốc phiện tự tạo.

+ Trả lại cho bị cáo Hờ A T: 01 (một) giấy phép lái xe số AL475148, mang tên Hờ A T.

+ Trả lại cho Thào Thị V: 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu HANA MOTO, mang biển kiểm soát 21V2-5544, màu sơn đen, xe đã cũ, đã qua sử dụng; 01 (một) đăng ký xe mô tô số 0018356, mang tên Lê Văn T.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo T phải chịu 200.000 đồng (hai tr m nghìn ng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo đối với Bản án: Áp dụng Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Bị cáo T có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi liên quan Thào Thị V có quyền kháng cáo phần Bản án có liên quan đến quyền lợi của mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp Bản án ược thi hành theo quy ịnh tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người ược thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy ịnh tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án ược thực hiện theo quy ịnh tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

240
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2018/HSST ngày 21/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:12/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trạm Tấu - Yên Bái
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về