TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P - TỈNH G
BẢN ÁN 119/2019/HSST NGÀY 23/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 23 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh G xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 136/2019/TLST-HS ngày 12 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 170/2019/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 9 năm 2019, đối với bị cáo:
NGUYỄN LÊ PHÚ T, sinh ngày 01 tháng 10 năm 2000 tại G; nơi ĐKHKTT: 59 Lê Lợi, tổ 07 phường Tây Sơn, thành phố P, tỉnh G; chỗ ở: Hẻm 372 Phạm Văn Đồng, tổ 11 (nay là tổ 04) phường Thống Nhất, thành phố P, tỉnh G; nghề nghiệp: Nhân viên phục vụ; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Phú Thương, sinh năm 1970 và bà Lê Thị Thu Trinh, sinh năm 1976; Cha, mẹ: hiện trú tại: Hẻm 372 Phạm Văn Đồng, tổ 11 (nay là tổ 04) phường Thống Nhất, thành phố P, tỉnh G; bị cáo có một người em ruột sinh năm 2004; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo Nguyễn Lê Phú T bị tạm giữ từ ngày 29/5/2019, sau đó bị tạm giam cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố P, tỉnh G. Có mặt.
Người chứng kiến: Ông Bùi Hữu K, sinh năm 1965; địa chỉ: Tổ 09, phường Phù Đổng, thành phố P, tỉnh G. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
1. Về hành vi phạm tội của bị cáo:
Trên cơ sở kết quả điều tra, xác định được như sau: Nguyễn Lê Phú T là người có sử dụng ma túy. Tối ngày 28/5/2019, T đi chơi game tại một tiệm Net (không rõ tên tiệm) trong hẻm đường Phan Đình Phùng, thành phố P thì nghe một số thanh niên (không rõ lai lịch) trong nhóm chơi game tại tiệm nói về việc có sử dụng ma túy đá và có nói đến đối tượng tên Nhung (không rõ lai lịch) là người bán ma túy. T đã xin số điện thoại của Nhung từ nhóm thanh niên này, để khi cần sử dụng ma túy thì T gọi hỏi mua. Đến 05 giờ ngày 29/5/2019, T nghỉ chơi game và đi đến thuê phòng số 102 tại nhà nghỉ Hoàng Dung trên đường Trường Chinh, Tổ 9, phường Phù Đổng, thành phố P, tỉnh G. Sau đó, T đã gọi điện vào số điện thoại của Nhung, hỏi mua ma túy với số tiền 300.000 đồng. Nhung đồng ý và hẹn gặp nhau tại trước khu vực nhà nghỉ Hoàng Dung. Một lúc sau, Nhung đi xe mô tô nhãn hiệu Attila màu vàng (không rõ biển số) đến bán cho T 02 gói ma túy đá, kèm theo một ống thủy tinh được uốn cong một đầu để sử dụng ma túy, với giá 300.000 đồng. T mang số ma túy cùng ống thủy tinh lên phòng và để trên giường. Sau đó, T lấy một vỏ chai nước suối cùng một đoạn ống hút nhựa ở trong phòng rồi lấy ống thủy tinh gắn vào vỏ chai nước suối để làm dụng cụ sử dụng ma túy. Đến 06 giờ 30 phút cùng ngày, khi T chưa kịp sử dụng bị lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy Công an thành phố P phối hợp với Công an phường Phù Đổng kiểm tra, phát hiện và bắt quả tang đối với T; đã thu giữ của T gồm: 02 gói nilon, bên trong đều chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng (đã được niêm phong theo quy định); 01 chai nhựa, trên nắp có gắn một ống thủy tinh uốn cong một đầu và một đoạn ống hút nhựa cùng 01 chiếc điện thoại di động đã cũ màu đen hiệu “Nokia 105”, số IMEI 357901/05/003711/6, kèm sim số mặt sau có dãy số 8984-04800-00425-88854.
Bị cáo Nguyễn Lê Phú T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.
2. Các vấn đề khác:
Ngày 29/5/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P ra Quyết định trưng cầu giám định. Tại Bản kết luận giám định số 410/KLGĐ ngày 04/6/2019 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh G, kết luận:“Chất màu trắng, dạng tinh thể trong 02 (hai) gói nilon, trong bì thư niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, tổng khối lượng 0,7863 gam”.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận nêu trên.
3. Cáo trạng của Viện kiểm sát:
Bản cáo trạng số: 141/CT-VKS ngày 11/9/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, tỉnh G đã truy tố bị cáo Nguyễn Lê Phú T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Nguyễn Lê Phú T và đề nghị Hội đồng xét xử: Về hình sự:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Lê Phú T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 và Điều 50 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; xử phạt bị cáo Nguyễn Lê Phú T với mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ là ngày 29/5/2019.
Về vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;
Tịch thu và tiêu hủy 01 (một) phong niêm số 410/PC09, đề ngày 04/6/2019 có dấu niêm phong của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh G; 01 (một) chai nhựa có gắn ống thủy tinh uốn cong một đầu và một đoạn ống hút nhựa.
Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động Nokia 105, màu đen, kèm sim số mặt sau có ghi dãy số 8984-04800-00425-88854 (điện thoại cũ đã qua sử dụng).
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu 200.000đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát.
Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án: Bị cáo thấy việc làm của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo rất hối hận vì việc làm của mình, kính mong Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P, tỉnh G; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, tỉnh G trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc có khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi bị truy tố của bị cáo:
Xét thấy lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên toà hôm nay, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ căn cứ để kết luận bị cáo Nguyễn Lê Phú T tội như sau:
Vào lúc 06 giờ 30 phút ngày 29/5/2019, tại phòng số 102 nhà nghỉ Hoàng Dung trên đường Trường Chinh, tổ 9, phường Phù Đổng, thành phố P, tỉnh G, khi Nguyễn Lê Phú T đang tàng trữ 0,7863 gam chất ma túy loại Methamphetamine, với mục đích để sử dụng, thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P phối hợp với Công an phường Phù Đổng kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng.
Tại Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các điều 248, 250, 251 và 252 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
b) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 01 gam đến dưới 500 gam;
c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;
…”.
Ma tuý là chất độc, có nguồn gốc tự nhiên hoặc tổng hợp, khi vào cơ thể con người có tác dụng làm thay đổi trạng thái ý thức và tâm sinh lý của con người, làm hạn chế hoạt động của não bộ và gây ức chế hệ thần kinh. Sự nghiện ngập là biểu hiện của trạng thái ngộ độc mãn tính do chất ma tuý gây ra, làm tổn thương cho bản thân. Ma tuý gây tác hại về nhiều mặt trong đời sống, xã hội. Sử dụng ma tuý làm suy thoái nhân cách, phẩm giá con người, gây xói mòn đạo lý, kinh tế, xã hội. Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm, không chỉ xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma tuý mà còn làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh trật tự tại địa phương.
Bị cáo Nguyễn Lê Phú T hoàn toàn nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhưng vì để thỏa mãn cơn nghiện của mình mà bị cáo đã cố tình mua ma túy sử dụng. Hành vi của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước. Bị cáo đã tàng trữ 0,7863 gam chất ma túy loại Methamphetamin với mục đích để sử dụng. Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, đúng như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, tỉnh G đã truy tố là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo một mức án tù có thời hạn tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, nhằm giáo dục bị cáo cải tạo bản thân tiến bộ là cần thiết.
[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải; Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Vì vậy, Hội đồng xét xử sẽ xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi quyết định hình phạt.
[4] Về vật chứng vụ án: Đối với 01 (một) phong bì niêm phong số 410/PC09 có dấu niêm phong của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh G và 01 (một) chai nhựa có gắn ống thủy tinh uốn cong một đầu và một đoạn ống hút nhựa. Xét đây là tang vật của vụ án nên tịch thu tiêu hủy.
Đối với 01 (một) điện thoại di động Nokia 105, màu đen, kèm sim số mặt sau có ghi dãy số 8984-04800-00425-88854 (điện thoại cũ đã qua sử dụng). Xét đây là phương tiện bị cáo liên lạc để mua ma túy nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.
[5] Về hình phạt bổ sung: Mục đích của bị cáo mua ma túy về sử dụng không có thu lợi nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về các vấn đề khác: Đối với đối tượng tên Nhung là người mà bị cáo T khai đã bán chất ma túy cho T; do T không biết được nhân thân, lai lịch của đối tượng Nhung; sau khi gọi điện liên lạc với Nhung để mua ma túy xong, T đã vứt sim cũ đi và thay sim khác. Cơ quan điều tra đã tiến hành mở nhật ký điện thoại đã thu giữ của T nhưng không xác định được số điện thoại của Nhung nên chưa có căn cứ để điều tra, xử lý. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P tiếp tục xác minh, khi nào xác định được sẽ xem xét, xử lý sau.
[7] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Lê Phú T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38, 50; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Nguyễn Lê Phú T.
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Lê Phú T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Về hình phạt:
Xử phạt bị cáo Nguyễn Lê Phú T 01(một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ ngày 29 tháng 5 năm 2019.
3. Về xử lý vật chứng:
Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Xử: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong số 410/PC09 có dấu niêm phong của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh G và 01 (một) chai nhựa có gắn ống thủy tinh uốn cong một đầu và một đoạn ống hút nhựa.
Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 (một) điện thoại di động Nokia 105, màu đen, kèm sim số mặt sau có ghi dãy số 8984-04800-00425-88854 (điện thoại cũ đã qua sử dụng).
(Tất cả theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 11/9/2019 giữa Công an thành phố P và Chi cục thi hành án dân sự thành phố P,tỉnh G).
4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Nguyễn Lê Phú T phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào các Điều 331 và 333 của Bộ luật tố Tụng hình sự năm 2015;
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh G xét xử phúc thẩm.
“Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.
Bản án 119/2019/HSST ngày 23/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 119/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/10/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về