TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NINH BÌNH, TỈNH NINH BÌNH
BẢN ÁN 117/2019/HS-ST NGÀY 18/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 18 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 121/2019/TLST-HS ngày 19 tháng 9 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 119 /2019/QĐXXST-HS, ngày 07 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Chí Th (tên gọi khác: Nguyễn Văn Th), sinh năm 1972,tại VT, VL, Thanh Hóa; Nơi cư trú:, phố Đ, phường BĐ, thành phố N, tỉnh Ninh Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 7/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Công M và bà Đào Thị T1; Vợ, con: Chưa có;
Tiền án: Bản án số 250/2012/HSST ngày 04/12/2012, Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt Nguyễn Văn Th 04 năm tù về tội « Mua bán trái phép chất ma túy », ra trại ngày 27/4/2015;
Tiền sự: không;
Nhân thân: Bản án số 599/1996/HSST ngày 21/11/1996 Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội xử phạt Nguyễn Văn Th 15 ( Mười lăm) tháng tù về tội « Trộm cắp tài sản của công dân »; Bản án số 176/HSST ngày 27/8/2001 Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xử phạt Nguyễn Văn Th 36 ( Ba mươi sáu) tháng tù về tội « Tàng trữ trái phép chất ma túy », hai bản án này bị cáo đã được xóa án tích;
Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 02/6/2019 đến ngày 06/6/2019 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh N cho đến nay (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Nguyễn Thị Thúy B, sinh năm 1974; Địa chỉ: Số nhà 03, ngách 10/122, đường Nguyễn Viết Xuân, phố Đông Xuân, phường BĐ, thành phố N, tỉnh N. ( Có mặt).
- Người làm chứng:
+ Ông Phạm Đình Ch, sinh năm 1952; (Vắng mặt)
+ Anh Trần Đức T2, sinh năm 1970; (Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt nhau sau:
Hồi 18 giờ 45 phút ngày 02/6/2019, Tổ công tác công an phường BĐ, thành phố N làm nhiệm vụ tại khu vực bờ đê sông Đáy, thuộc phố Đông Sơn, phường BĐ, thành phố N phát hiện Nguyễn Chí Th điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 35F9-0589 hiệu WOLDWIDE có biểu hiện nghi vấn, Tổ công tác đã ra tín hiệu yêu cầu dừng xe để kiểm tra hành chính. Quá trình kiểm tra Nguyễn Chí Th biết không che giấu được hành vi của mình đã tự giác giao nộp từ tay trái cho Tổ công tác 01 gói nhỏ được gói ngoài bằng giấy bạc màu trắng bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng. Nguyễn Chí Th tự khai nhận đây là gói ma túy loại Heroine mà Th vừa mua ở một ngôi nhà ven đường 10, thuộc xã YB, huyện Y,tỉnh Nam Định với giá 200.000 đồng về để sử dụng. Tổ công tác đã tiến hành thu giữ niêm phong vật chứng theo đúng quy định và đưa Nguyễn Chí Th cùng tang vật, những người liên quan về trụ sở Công an phường BĐ, thành phố N lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, ngoài ra còn thu giữ của Th 01 xe mô tô biển kiểm soát 35F9-0589 hiệu WOLDWIDE.
Cơ quan Công an tiến hành cân xác định khối lượng số chất bột dạng cục màu trắng thu giữ của Nguyễn Chí Th có khối lượng là 0,145 gam ký hiệu M gửi đi giám định để xác định loại ma túy và khối lượng chất ma túy.
Tại bản kết luận giám định số 172/KLGĐ-PC09-MT ngày 05/6/2019 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N đã kết luận “Mẫu chất bột dạng cục màu trắng gửi tới giám định ký hiệu M có khối lượng 0,1451 gam là ma túy, loại Heroine” (Heroine là chất ma túy thuộc bảng danh mục I có số thứ tự 9; Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính Phủ). Số heroine thu giữ của bị cáo sau khi lấy mẫu giám định (không hoàn trả mẫu vật) số còn lại 0,0746 gam cùng toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố N đã chuyển cho Chi cục thi hành án dân sự thành phố N quản lý để giải quyết cùng vụ án.
Quá trình điều tra Nguyễn Chí Th khai nhận: Do có nhu cầu sử dụng Heroine nên Th đã điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 35F9-0589 hiệu WOLDWIDE từ nhà sang một ngôi nhà nằm trên đường 10, thuộc xã YB, huyện Y, tỉnh Nam Định để mua ma túy. Khi đến nơi Th gõ cửa sắt bên ngoài ngôi nhà và lấy số tiền 200.000 đồng đưa qua lỗ cửa. Trong nhà có người cầm tiền, Th nói “ Để cho một cái”, trong nhà có giọng đàn ông trả lời “Ừ” và đưa cho Th 01 gói ma túy loại Heroine. Th cầm gói Heroine ở tay trái và điều khiển xe về N. Khi về đến N thì Th bị Tổ công tác phát hiện thu giữ ma túy.
Quá trình điều tra để xác định tiền án, tên lót của bị cáo Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố N đã ra quyết định trưng cầu giám định các dấu vân tay trên danh chỉ bản phô tô số 75 mang tên Nguyễn Văn Th, sinh năm 1972 nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: phố Đ, phường BĐ, thành phố N, tỉnh N lập ngày 12/3/2012 tại Công an huyện Hóc môn, thành phố Hồ Chí Minh ký hiệu A1 so với các dấu vân tay in ở các ô tương ứng trên danh chỉ bản số 161 mang tên Nguyễn Chí Th, sinh năm 1972, Nơi ĐKHKTT: phố Đ, phường BĐ, thành phố N, tỉnh Ninh Bình lập ngày 03/6/2019 tại Công an thành phố N ký hiệu A2 có phải của cùng một người không? Tại kết luận giám định số 65/KLGĐ-CP09-DVĐV ngày 20/8/2019 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N kết luận: “Các dấu vân tay in trên danh chỉ bản phô tô số 75 mang tên Nguyễn Văn Th, sinh năm 1972, ký hiệu A1 so với các dấu vân tay in tại các ô tương ứng trên danh bản số 161 mang tên Nguyễn Chí Th, sinh năm 1972, ký hiệu A2 là vân tay của cùng một người”. Tờ khai chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu đều thể hiện bị cáo tên chính là Nguyễn Chí Th.
Tại bản cáo trạng số 125/CT-VKS, ngày 17 tháng 9 năm 2019 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình truy tố bị cáo Nguyễn Chí Th ra trước Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình để xét xử về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà Kiểm sát viên tham gia phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Chí Th phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm r,s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; xử phạt: Bị cáo Nguyễn Chí Th từ 18 đến 24 tháng tù; Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 02/6/2019; Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ 0,0746 gam ma túy còn lại sau giám định cùng giấy gói ban đầu trong một phong bì niêm phong; Bị cáo bị xét xử nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Chí Th khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, không có ý kiến tranh luận gì và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án chị Nguyễn Thị Thúy B trình bày chiếc xe mô tô biển kiểm soát 35F9-0589 hiệu WOLDWIDE đăng ký xe mang tên Trịnh Văn Th1 là tài sản của chị, tháng 3 năm 2019 chị nhờ bị cáo đứng ra giao dịch với ông Trịnh Văn Th1 để mua chiếc xe cho chị, sau khi mua xe chị chưa làm thủ tục sang tên đổi chủ, do bị cáo không có xe để đi lại nên chị đã cho bị cáo mượn, bị cáo Th lấy xe đi mua ma túy chị không biết. Cơ quan công an đã trả chiếc xe trên cho chị, đến nay chị không có đề nghị gì.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2] Về lý lịch của bị cáo: Căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được Cơ quan điều tra thu thập như tờ khai chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu ... và kết luận giám định số 65/KLGĐ-CP09-DVĐV ngày 20/8/2019 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N Hội đồng xét xử xác định Nguyễn Văn Th, Nguyễn Chí Th là cùng một người và Nguyễn Chí Th là họ tên chính của bị cáo.
[3] Về hành vi phạm tội: Tại phiên toà bị cáo Nguyễn Chí Th đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ; kết luận giám định số 172/KLGĐ-PC09-MT ngày 05/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N và phù hợp với lời khai của người làm chứng. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Ngày 02/6/2019 tại khu vực bờ đê sông Đáy, thuộc phố Đ, phường BĐ, thành phố N bị cáo Nguyễn Chí Th đã có hành vi cất giữ bất hợp pháp trong người 0,1451 gam ma túy loại Heroine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân thì bị phát hiện bắt giữ đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”; Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý mà còn làm ảnh hưởng trực tiếp đến trật tự an toàn xã hội, đến sức khoẻ của con người và là nguyên nhân làm phát sinh nhiều tệ nạn xã hội khác…Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, có nhân thân xấu đã 2 lần bị kết án về tội phạm liên quan đến ma túy và tội trộm cắp tài sản nhưng bị cáo không chịu lấy đó làm bài học để tu dưỡng rèn luyện bản thân mà tiếp tục cố ý phạm tội nên cần buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự.
Về tình tiết tăng nặng: Bản án số 250/2012/HSST ngày 04/12/2012 của Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh kết án bị cáo Th, bị cáo mới chấp hành xong hình phạt tù, chưa chấp hành hình phạt bổ sung là hình phạt tiền và án phí do vậy chưa được xóa án tích, lần phạm tội này bị cáo thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên phải chịu tình tiết tăng nặng là tái phạm được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo; khi bị công an yêu cầu kiểm tra hành chính bị cáo đã tự giác giao nộp gói ma túy, đây là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, r khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Căn cứ tính chất mức độ hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để tạo điều kiện cho bị cáo học tập, lao động, cải tạo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội. Hội đồng xét xử thấy hành vi, tội danh và điều khoản áp dụng tại bản cáo trạng, lời luận tội, các chứng cứ buộc tội đối với bị cáo như Kiểm sát viên trình bày tại phiên tòa là có căn cứ và đúng pháp luật.
Về hình phạt bổ sung: Xét hành vi tàng trữ ma túy của bị cáo chỉ nhằm mục đích sử dụng cho bản thân, không mang tính chất vụ lợi, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[4] Các vấn đề khác:
- Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ: Bị cáo khai mua của một người đàn ông không quen biết qua lỗ nhỏ trên cánh cửa của ngôi nhà nằm trên đường 10, xã YB, huyện Y, tỉnh Nam Định, bị cáo không biết tên, tuổi địa chỉ cụ thể của người đàn ông bán ma túy cho mình nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố N không có căn cứ điều tra, làm rõ để xử lý.
- Vật chứng của vụ án: Số ma túy, loại heroine thu giữ của bị cáo có khối lượng 0,1451 gam, sau khi lấy mẫu giám định (không hoàn trả mẫu vật) số còn lại 0,0746 gam cùng toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu huỷ.Tất cả được niêm phong trong một phong bì ghi số 172/KLGD-PC09-MT.
- Đối với 01 xe mô tô biển kiểm soát 35F9-0589 hiệu WOLDWIDE thu giữ của bị cáo Nguyễn Chí Th: quá trình điều tra xác định đăng ký xe mang tên ông Trịnh Văn Th1; lời khai của ông Th1 xác nhận đã bán chiếc xe này cho bị cáo Nguyễn Chí Th, bị cáo Th nói với ông là mua hộ cho chị Nguyễn Thị Thúy B ( em gái của bị cáo); mặc dù sau khi mua xe chị B chưa làm thủ tục đăng ký sang tên xe mô tô nhưng căn cứ vào lời khai của các bên Hội đồng xét xử xác định chiếc xe này là tài sản của chị B. Do bị cáo không có xe để đi lại chị B đã cho bị cáo mượn, ngày 02/6/2019 bị cáo Th lấy xe đi mua ma túy chị B không biết nên không vi phạm. Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố N đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe trên cho chị B là đúng quy định pháp luật. Chị B đã nhận lại chiếc xe và không có đề nghị gì nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm r,s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106; Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Chí Th (tên gọi khác Nguyễn Văn Th) phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Chí Th (tên gọi khác Nguyễn Văn Th) 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ ngày 02/6/2019.
Việc xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu 01 phong bì niêm phong theo đúng quy định của pháp luật ghi “số 172/KLGD-PC09-MT. Mẫu vật hoàn trả sau giám định”. Mặt sau có 3 dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N (Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 09/10/2019 giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố N và Chi cục thi hành án dân sự thành phố N).
Về án phí: Bị cáo Nguyễn Chí Th (tên gọi khác Nguyễn Văn Th) phải nộp 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Án xử sơ thẩm công khai bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án .
Áp dụng Điều 26 Luật Thi hành án dân sự: “Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”./.
Bản án 117/2019/HS-ST ngày 18/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 117/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/10/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về