TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 116/2019/HS-ST NGÀY 28/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 28 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 104/HSST ngày 01 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 645/2019/QĐXXST- HS ngày 13 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:
Vƣơng Thông T, sinh năm 1991 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Số CMND: 0247196** do Công an Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 30/5/2011; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Hoàng Hoa Thám, Phường 7, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi cư trú: Cách Mạng Tháng Tám, Phường 12, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh; Không nghề nghiệp; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Vương Quang V và bà Nguyễn Thị Lưu H; Hoàn cảnh gia đình: Chưa có vợ con; Tiền án; Tiền sự: Không; Bị tạm giam từ ngày 24/01/2019 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án:
1. Bà Nguyễn Thị Lưu H, sinh năm 1966; Địa chỉ: Hoàng Hoa Thám, Phường 7, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt)
2. Anh Trần Thanh Đ, sinh năm 1988; Địa chỉ: ấp 6, xã Nhị Thành, huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An. (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 23 giờ 55 phút ngày 23/01/2019, các anh Phạm Đức T1, Nguyễn Mạnh C, Nguyễn Minh L (Trinh sát đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy – Công an Quận 1) đi tuần tra thì phát hiện Vương Thông T đang ngồi ghế sau trong ô tô biển số: 62A-117.** do Trần Thanh Đ điều khiển đang đậu trước nhà số 07, Nam Quốc Cang, phường Phạm Ngũ Lão, Quận 1 có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu T và Đ về Công an phường Phạm Ngũ Lão để kiểm tra hành chính. Qua kiểm tra, tổ công tác phát hiện trên ghế phía sau, bên phải xe ôtô biển số: 62A-117.**, ngay vị trí Vương Thông T ngồi có 01 gói nylon chứa 04 viên nén màu xám, 02 gói nylon chứa chất bột trắng (T khai là ma túy) nên tổ công tác đã tiến hành bắt giữ T, thu giữ vật chứng giao Công an phường Phạm Ngũ Lão lập biên bản bắt người phạm tội quả tang rồi chuyển cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1 để xử lý theo thẩm quyền (BL: 25-30).
Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an Quận 1 đã tiến hành khám xét nơi ở của Vương Thông T tại địa chỉ phòng 101, Lầu 1, nhà số đường Cách Mạng Tháng Tám, Phường 12, Quận 10 và thu giữ thêm 01 gói nylon chứa 26 viên nén màu xám, 01 gói nylon chứa 06 viên nén màu xám, 01 gói nylon chứa 01 viên nén màu xám, 01 gói nylon chứa chất bột màu xanh và một số vật dụng cá nhân. Số ma túy thu giữ trên, T không thừa nhận là của mình mà khai nhận là của đối tượng tên K (không rõ lai lịch), hôm ngày xảy ra sự việc (ngày 23/01/2019) đến nhà của T chơi và bỏ lại tại đây đến khi Cơ quan điều tra kiểm tra thì T mới biết là của K bỏ lại. Xét thấy chưa đủ cơ sở xác định số ma túy này là của T nên Cơ quan điều tra – Công an Quận 1 đã chuyển hồ sơ, tài liệu cùng vật chứng liên quan đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 để điều tra thụ lý theo thẩm quyền.
Theo Kết luận giám định số 494/KLGĐ-H ngày 29/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:
+ 01 gói nylon chứa 04 viên nén tròn màu xám là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,3532g (một phẩy ba năm ba hai gam), loại MDMA;
+ 02 gói nylon chứa tinh thể không màu là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,0971g (một phẩy không chín bảy một gam), loại Ketamine (BL: 123) Quá trình điều tra, Vương Thông T khai nhận số ma túy thu giữ được trên ghế sau xe ôtô T ngồi gồm 01 gói nylon chứa 04 viên nén màu xám là của T được một người tên K (không rõ lai lịch) quen tại bar Club 85, số 01 Quang Trung, phường 3, quận Gò Vấp cho T để sử dụng, 02 gói nylon chứa chất bột trắng là của T mua của nhân viên phục vụ (không rõ lai lịch) tại quán bar 85, số 01 Quang Trung, Quận Gò Vấp với giá 2.000.000 đồng mục đích để sử dụng cho bản thân. Lời khai của T phù hợp với lời khai nhân chứng, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác mà cơ quan điều tra đã thu thập được (BL: 56 – 84).
Đối với Trần Thanh Đ (là tài xế xe ôtô Grab biển số 62A-117.**) không biết việc T cất giữ ma túy, không liên quan và không đồng phạm với T nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1 không xử lý.
Đối với người đàn ông tên K để ma túy tại nhà T và cho T ma túy, nhân viên phục vụ tại quán bar 85 bán cho T ma túy, T khai nhận không biết nhân thân lai lịch. Cơ quan điều tra đang tiếp tục xác minh làm rõ, khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau.
- Vật chứng vụ án gồm có: 01 gói niêm phong bên trong có 1,3532g ma túy ở thể rắn loại MDMA; 1,0971g ma túy ở thể rắn loại Ketamine (Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1 đang tạm giữ); Thu giữ của Vương Thông T: 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone; 01 (một) sim điện thoại; số tiền 600 đô la Mỹ; số tiền 48.700.000 VNĐ; 02 (hai) thẻ Ngân hàng mang tên Vương Thông T; 01 (một) túi giấy; 01 (một) bao nylon; 02 (hai) máy tính xách tay hiệu Dell; 01 (một) loa nghe nhạc màu trắng hiệu Harman Kardon;
01 (một) xe gắn máy hiệu Honda biển số: 59E1-448.**, qua xác minh do Vương Thông T đứng tên đăng ký xe. Các vật chứng trên hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1 đang tạm giữ (BL: 144-149), Tại bản cáo trạng số 108/CT-VKSQ1 ngày 31 tháng 7 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Vương Thông T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm i Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm năm 2015.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Vương Thông T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm i Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Do trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu nên đề nghị áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tù. Về xử lý vật chứng đề nghị: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định. Các tài sản và tiền thu giữ tại nhà bị cáo không liên quan đến vụ án nên trả lại cho bị cáo. Đối với 01 (một) túi giấy và 01 (một) bao nylon không có giá trị sử dụng nên tiêu hủy.
Tại phiên tòa, Vương Thông T khai nhận: Khoảng 23 giờ 55 phút ngày 23/01/2019 bị cáo mang số ma túy như cáo trạng truy tố dự định vào quán bar số 7 Nam Quốc Cang, phường Phạm Ngũ Lão, Quận 1 để sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng đã bị bắt phạm tội quả tang. Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản cáo trạng, không bào chữa, không tranh luận. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để có cơ hội sửa chữa sai lầm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 1, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời nhận tội của bị cáo Vương Thông T tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu và chứng cứ khác như biên bản bắt người phạm tội quả tang; Bản kết luận giám định số 494/KLGĐ – H ngày 29/01/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự – Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã đủ cơ sở kết luận: Vương Thông T là đối tượng nghiện ma túy và đã có hành vi cất giữ 1,3532g (một phẩy ba năm ba hai gam) ma túy ở thể rắn loại MDMA và 1,0971g (một phẩy không chín bảy một gam) ma túy ở thể rắn loại Ketamine nhằm mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo Vương Thông T đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm được qui định tại điểm i Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Vì nghiện ma túy nên bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi tàng trữ ma túy để sử dụng. Đây là hành vi trái pháp luật làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự ở địa phương, tiếp tay cho những phần tử xấu duy trì tệ nạn ma túy đi ngược lại lợi ích chung của toàn xã hội nên cần xử phạt nghiêm để có tác dụng giáo dục và răn đe, phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, xét thấy tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu, chưa có tiền án, tiền sự nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội. Đồng thời áp dụng hình phạt bổ sung là phạt bị cáo số tiền 5.000.000 đồng để sung công quỹ nhà nước.
[4] Đối với Trần Thanh Đ là tài xế xe ôtô Grab biển số 62A-117.** không biết việc T cất giữ ma túy, không liên quan và không đồng phạm với T nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1 không xử lý là có cơ sở.
[5] Kiến nghị cơ quan cảnh sát điều tra có thẩm quyền tiếp tục xác minh làm rõ số lượng ma túy thu giữ tại nơi ở của bị cáo và đối tượng tên K đã cho bị cáo ma túy và người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo sử dụng, khi nào có đủ cơ sở tiếp tục xử lý sau.
[6] Về xử lý vật chứng: Các vật chứng thu giữ tại nhà bị cáo gồm 01 (một) điện thoại hiệu Iphone; 01 (một) sim điện thoại; số tiền 600 đô la Mỹ;
48.700.000 tiền VNĐ; 02 (hai) thẻ Ngân hàng mang tên Vương Thông T; 02 (hai) máy tính xách tay hiệu Dell; 01 (một) loa nghe nhạc màu trắng hiệu Harman Kardon; 01 (một) xe gắn máy hiệu Honda biển số: 59E1-448.** do Vương Thông T đứng tên đăng ký xe. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và bà Nguyễn Thị Lưu H (mẹ của bị cáo) xác định nguồn tiền mua xe là của bà H, bà H cho T đứng tên sở hữu để thuận tiện trong việc lưu thông. Xét thấy, các tài sản và tiền thu giữ tại nơi ở của bị cáo không liên quan đến vụ án nên trả lại số tài sản trên cho bị cáo. Đối với 01 (một) túi giấy; 01 (một) bao nylon thu giữ trong vụ án không còn giá trị sử dụng nên tiêu hủy. Đối với số ma túy còn lại sau giám định được niêm phong ghi số vụ 494/19Q1 đây là chất ma túy độc hại cấm sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Vương Thông T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Căn cứ vào điểm i Khoản 1 Điều 249, điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015: Xử phạt Vương Thông T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/01/2019. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án. Thời hạn tạm giam là 45 (bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án ngày 28/8/2019.
- Căn cứ vào Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ 01 gói ma túy đã niêm phong bên ngoài ghi số vụ 494/19Q1 (Phiếu nhập kho vật chứng số 222-19/PNK ngày 17/6/2019). Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Iphone số Imei 356718083661188; 01 sim số 0909007402; 06 tờ tiền ngoại tệ loại một trăm đô la, số seri LL13401141E; LL92121131F; LL7526264G; LB56448923R;MD10801196A; LF65347165F;
02 thẻ Ngân hàng ghi tên Vương Thông T; 3.200.000 đồng (ba triệu hai trăm nghìn đồng); 25 tờ tiền VNĐ mệnh giá năm trăm nghìn đồng; 100 tờ tiền VNĐ mệnh giá hai trăm nghìn đồng; 130 tờ tiền VNĐ mệnh giá một trăm nghìn đồng; 02 máy tính xách tay hiệu Dell; 01 loa nghe nhạc màu trắng hiệu HARMAN/KARDON; 01 xe gắn máy hiệu Honda màu vàng, bảng số 59E1- 448.07, số khung RLHJF4216DY052255, số máy JF42E0052291. Tiêu hủy 01 túi giấy và 01 bao nylon (Phiếu nhập kho vật chứng số 41/19-PNK và số 42/19-PNK ngày 11/02/2019 của Công an Quận 1) - Căn cứ vào Khoản 5 Điều 249 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Phạt tiền bị cáo Vương Thông T số tiền 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) để sung quỹ nhà nước.
- Căn cứ vào Điều 135; Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).
- Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 116/2019/HS-ST ngày 28/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 116/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 1 - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/08/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về