Bản án 11/2018/HS-ST ngày 24/04/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẾN CẦU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 11/2018/HS-ST NGÀY 24/04/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 4 năm 2018 tại Tòa án nhân dân huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh, Tòa án nhân dân huyện Bến Cầu mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 11/HS-ST, ngày 23 tháng 3 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2018/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 4 năm 2018 đối với bị cáo:

Phạm Văn C., sinh năm: 1993, tại huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và nơi cư trú hiện nay: Ấp N.T, xã L.T, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh. Số CMND số: 291062XXX. Nghề nghiệp: Hớt tóc; Trình độ học vấn: 0/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Văn Q. (đã chết) và bà Nguyễn Thị G.; Vợ: Trương Thị Mỹ L, sinh năm 1990, con: có 01 người sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 13/02/2018 đến nay. Bị cáo có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 13 giờ ngày 30/01/2018, Công an xã Tiên Thuận phối hợp Công an huyện Bến Cầu kiểm tra tiệm hớt tóc “Chung” thuộc ấp Xóm Lò, xã Tiên Thuận, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh. Phát hiện Phạm Văn C. cất giữ 01 chai nhựa màu trắng, nắp chai màu xanh, bên trong chai nhựa có chứa chất lỏng màu trắng và 05 bịch nilon màu trắng được hàn kín một đầu trong chai nhựa (nghi là ma túy) nên lập biên bản vi phạm hành chính và tiến hành tạm giữ điều tra làm rõ.

Quá trình điều tra, C. khai nhận: Khoảng 15 giờ ngày 29/01/2018, C. thuê xe honda ôm của một người đàn ông không rõ lai lịch sang Campuchia gặp người Campuchia không rõ lai lịch tại khu vực Casino Đen thuộc Thành phố Ba Vét, tỉnh Svây Riêng, Vương quốc Campuchia, mua 01 bịch ma túy với giá 300.000 đồng, sau đó đem về tiệm hớt tóc bỏ vào chai nhựa cất giấu sử dụng thì bị bắt.

Kết luận giám định số: 30/KL-KTHS ngày 01/02/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh xác định: Mẫu chất lỏng màu trắng bên trong 01 (một) chai nhựa màu trắng có nắp đậy màu xanh (ký hiệu M) gửi đến giám định có chứa chất ma túy, là loại Methamphetamine; Hàm lượng là 63,11%; Khối lượng là 0,8084 gam.

Vật chứng cơ quan điều tra thu giữ gồm:

- 01 chai nhựa màu trắng có nắp đậy màu xanh;

- 01 điện thoại di động hiệu Huawel, màu xám, đã qua sử dụng có nhiều vết trầy xước;

- 01 bình có đặc điểm: Phần dưới của bình làm bằng thủy tinh, phần trên của bình bằng kim loại màu trắng và có gắn 01 ống nhựa màu xanh;

- 16 cục than được quấn bằng giấy màu trắng .

Đối với người đàn ông chạy xe ôm và người bán ma túy cho C., không rõ lai lịch nên không làm việc được. Khi nào làm việc được xử lý sau.

Hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của C., Cơ quan điều tra Công an huyện Bến Cầu đã xử phạt hành chính.

Tại bản cáo trạng số: 13/QĐ/KSĐT ngày 23 tháng 3 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu đã truy tố Phạm Văn C. về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo qui định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo C. đã khai nhận hành vi phạm tội như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh giữ nguyên quan điểm mà VKSND huyện Bến Cầu đã truy tố, đề nghị tuyên bố Phạm Văn C. phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy", đề nghị áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 249 và điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo C. từ 03 đến 04 năm tù. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo C.. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.

Bị cáo thống nhất với luận tội của Kiểm sát viên, không có ý kiến tranh luận, bào chữa.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bến Cầu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo thể hiện: Ngày 30/01/2018, Phạm Văn C. tàng trữ 0,51018 gam (Khối lượng là 0,8084 gam x Hàm lượng là 63,11% = 0,51018 gam) ma túy loại Methamphetamine tại tiệm hớt tóc “Chung” thuộc ấp Xóm Lò, xã Tiên Thuận, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh để sử dụng thì bị bắt . Hành vi của C. đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, được quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự như luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ.

Hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của C., Cơ quan điều tra Công an huyện Bến Cầu đã xử phạt hành chính. Đối với người đàn ông chạy xe ôm và người bán ma túy cho C., không rõ lai lịch nên không làm việc được. Khi nào làm việc được xử lý sau.

[3] Vụ án mang tính chất nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội đã trực tiếp xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội, việc tàng trữ và sử dụng ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho cho bản thân, gia đình và xã hội. Bỡi lẽ người nghiện ma túy sẽ dễ bị thoái hóa nhân cách, rối loạn hành vi, có lối sống buông thả dễ vi phạm pháp luật, gây mất trật tự an toàn xã hội là một trong những nguyên nhân gia tăng các tệ nạn xã hội và tội phạm, nên cần phải xử lý nghiêm mới có tác dụng răn đe giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Khi quyết định hình phạt, có xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo:

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có cha là là người có công với cách mạng nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ được qui định tại điểm s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu tại phiên tòa là có căn cứ chấp nhận. Do đó xét thấy cần áp dụng hình phạt tù giam để cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian, để cải tạo giáo dục cho bị cáo trở thành công dân tốt cho xã hội, biết chấp hành pháp luật.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có có tài sản do đó miễn áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[5] Về vật chứng: Hội đồng xét xử xét thấy:

- Đối với: 01 (một) chai nhựa màu trắng có nắp đậy màu xanh, 01(một) bình có đặc điểm: phần dưới của bình làm bằng thủy tinh, phần trên của bình bằng kim loại màu trắng và có gắn 01 (một) ống nhựa màu xanh, 16 (mười sáu) cục than được quấn bằng giấy màu trắng là tang vật trong vụ án giá trị sử dụng thấp cần tịch thu tiêu huỷ.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Huawel, màu xám, đã qua sử dụng có nhiều vết trầy xước là tài sản của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội nên trả cho bị cáo.

[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn C. phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Phạm Văn C. 03 (ba) năm tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13/02/2018.

Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

2. Vật chứng:

Căn cứ Điều 47, Điều 48 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) chai nhựa màu trắng có nắp đậy màu xanh, 01(một) bình có đặc điểm: phần dưới của bình làm bằng thủy tinh, phần trên của bình bằng kim loại màu trắng và có gắn 01 (một) ống nhựa màu xanh, 16 (mười sáu) cục than được quấn bằng giấy màu trắng.

- Trả cho bị cáo C.: 01 điện thoại di động hiệu Huawel, màu xám, đã qua sử dụng có nhiều vết trầy xước nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 28-3-2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án bị cáo Phạm Văn C. phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

Án hình sự sơ thẩm xử công khai, báo cho bị cáo được quyền kháng cáo theo trình tự thủ tục phúc thẩm lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp Bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2018/HS-ST ngày 24/04/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:11/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bến Cầu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về