Bản án 111/2019/HS-ST ngày 28/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 111/2019/HS-ST NGÀY 28/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 110/2019/TLST-HS ngày 30/7/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 117/2019/QĐXXST-HS ngày 14/8/2019 đối với bị cáo:

Lê Thành V, sinh năm 1989 tại Hà Nam; nơi ĐKHKTT, chỗ ở: Thôn L, xã C, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con bà Nguyễn Thị N và không xác định được bố đẻ; có vợ là Bùi Thị C, sinh năm 1998 và 01 con sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 30/12/2013, Chủ tịch UBND huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam ra Quyết định về việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh, thời hạn 24 tháng; bị bắt, tạm giữ ngày 16/6/2019, tạm giam từ ngày 22/6/2019 đến nay; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Bùi Thị Ch, sinh năm 1998; trú tại: Thôn L, xã C, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam; có mặt.

- Người làm chứng: Anh Nguyễn Thành L, sinh năm 1989; trú tại: Tổ dân phố B, phường T, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ 20 phút ngày 16/6/2019, Lê Thành V điều khiển xe môtô, BKS: 90B2-630.22 từ nhà đến Trung tâm phòng chống bệnh tật tỉnh Hà Nam để ung thuốc Methadone, sau khi uống thuốc xong, V điều khiển xe môtô đi đến khu vực cầu Câu Tử thuộc xã Châu Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam thì gặp bạn tên Cường khoảng 35 tuổi nhà ở xã Châu Sơn, huyện Duy Tiên, tại đây Cường và V rủ nhau đi đến thành phố Phủ Lý mua ma túy để sử dụng. Sau đó, Cường chở V bằng xe của V đi đến khu vực tổ dân phố bảo Lộc 1, phường Thanh Châu, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam thì dừng lại, Cường bảo V xuống xe đứng chờ rồi điều khiển xe đi tiếp. Một lúc sau, Cường quay lại đưa cho V 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng và nói: “Cầm bao thuốc lá cẩn thận có hàng ở bên trong”, biết trong vỏ bao thuốc lá có ma túy, V liền cầm lấy và giữ trong lòng bàn tay trái, Cường lại nói: “Mày ngồi đây đợi anh đi mua đồ về chơi” rồi bỏ đi. Trong lúc V ngồi trên xe máy đợi Cường quay lại thì bị lực lượng Công an phường Thanh Châu, thành phố Phủ Lý đi tuần tra thấy V có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu kiểm tra, phát hiện, thu giữ trong lòng bàn tay trái của V 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, bên trong có gói giấy bạc màu vàng chứa chất bột màu trắng dạng cục. Tại chỗ, V khai nhận đó là ma túy, cất giấu để sử dụng.

Vật chứng, tài sản thu giữ của Lê Thành V gồm: 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng; 01 xe môtô Honda Wave, BKS: 90B2-630.22 và 01 đăng ký xe môtô mang tên Lê Thành V.

Tại bản Kết luận giám định số 127/PC09-MT ngày 19/6/2019, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận: “Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,168 gam, loại Heroine”.

Bản cáo trạng số 114/CT-VKSTP ngày 29/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đã truy tố Lê Thành V về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý thực hành quyền công tố giữ nguyên quan điểm không thay đổi, bổ sung về nội dung đã truy tố đối với bị cáo Lê Thành V, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 và Điều 50 Bộ luật hình sự:

- Xử phạt Lê Thành V từ 24 tháng đến 30 tháng tù.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Xử lý vật chứng của vụ án theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Thành V đã khai nhận toàn bộ hành vi như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Lê Thành V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các chứng cứ của vụ án được thẩm tra tại phiên tòa như biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng, kết luận giám định về chất ma túy, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ của vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 09 giờ 40 phút ngày 16/6/2019, tại khu vực tổ dân phố Bảo Lộc 1, phường Thanh Châu, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, Lê Thành V bị lực lượng Công an phường Thanh Châu, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam bắt giữ quả tang đang cất giấu trái phép 0,168 gam Heroine, mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bản thân là người nghiện ma túy, đã từng bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc có thời hạn.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên sẽ được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt:

Hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, mức độ nghiêm trọng, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy và các chất gây nghiện trực tiếp là các hoạt động cất giữ, tàng trữ chất ma túy, gây mất trật tự, an toàn cho xã hội, làm nảy sinh tệ nạn ma túy là mầm mống, nguyên nhân phát sinh các tội phạm khác. Vì vậy, cần có mức hình phạt nghiêm minh, tương xứng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm bị cáo đã thực hiện mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo thành người có ích đồng thời nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh ngăn chặn, phòng ngừa tội phạm.

Hình phạt bổ sung: Do bị cáo bản thân nghiện ma túy, nghề nghiệp, thu nhập không ổn định và không có tài sản riêng nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung (như phạt tiền, tịch thu tài sản…) đối với bị cáo.

[6] Đối với người thanh niên Lê Thành V khai tên Nguyễn Văn Cường ở Thôn Thọ Cầu, xã Châu Sơn, huyện Duy Tiên là người đã đi mua ma túy và đưa cho bị cáo cất giấu, do Cơ quan điều tra nhiều lần triệu tập nhưng Cường vắng mặt tại nơi cư trú, ngoài lời khai của bị cáo không có tài liệu, chứng cứ nào khác chứng minh Cường là đồng phạm với bị cáo nên việc Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, xác minh, khi có căn cứ sẽ xử lý là phù hợp quy định pháp luật.

[7] Về vật chứng và xử lý vật chứng đã thu giữ:

+ Đối với chiếc xe môtô BKS: 90B2-630.22, quá trình điều tra đã xác định tài sản hợp pháp trong thời kỳ hôn nhân của bị cáo và chị Bùi Thị C (vợ bị cáo), được đăng ký mang tên Lê Thành V. Tại bản kết luận định giá tài sản số 59/2019 ngày 08/7/2019, Hội đồng định giá tài sản thành phố Phủ Lý đã xác định chiếc xe môtô có giá trị là 5.000.000 đồng. Do bị cáo đã sử dụng tài sản này làm phương tiện để phạm tội nên sẽ xem xét tịch thu, sung vào ngân sách Nhà nước phần tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bị cáo là ½ giá trị chiếc xe, phần giá trị còn lại của tài sản này sẽ trả lại cho chị C. Tại phiên tòa, chị C đề nghị xin được thanh toán đối trừ ½ giá trị của chiếc xe tại thi điểm định giá thuộc quyền sở hữu hợp pháp ca bị cáo bị tch thu, sung vào ngân sách Nhà nước để xin được nhận lại chiếc xe về sử dụng, xét thấy nguyện vọng này của chị C là tự nguyện, chính đáng, phù hợp pháp luật nên sẽ được xem xét, chấp nhận.

+ Đối với 01 giấy chứng nhận đăng ký xe môtô, xe máy mang tên Lê Thành V sẽ xem xét giao trả cho chị Bùi Thị C sau khi chị C đã thanh toán đối trừ phần giá trị của chiếc xe thuộc quyền sở hữu hợp pháp ca bị cáo bị tịch thu, sung vào ngân sách Nhà nước để tiện sử dụng. Chị C có trách nhiệm đăng ký lại quyền sở hu tài sản này theo quy định của pháp luật.

+ Đối với toàn bộ số Heroine hoàn trả sau giám định cùng bao gói và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long là vật cấm tàng trữ, không có giá trị sử dụng sẽ tịch thu, tiêu hủy.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thực hiện quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 và Điều 50 Bộ luật hình sự:

Tuyên bố bị cáo Lê Thành V phm tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/6/2019.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu, sung vào ngân sách Nhà nước ½ giá trị chiếc xe máy biển kiểm soát 90B2-63022, màu sơn trắng, xe cũ đã qua sử dụng, số khung: RLHJAS906HYS20524, số máy: JA39E-0320482 thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bị cáo Lê Thành V.

- Trả lại cho chị Bùi Thị C ½ giá trị chiếc xe máy biển kiểm soát 90B2-63022, màu sơn trắng, xe cũ đã qua sử dụng, số khung: RLHJAS906HYS20524, số máy: JA39E-0320482.

Chấp nhận đề nghị của chị Bùi Thị C, trả lại cho chị chiếc xe máy trên sau khi đã thanh toán đối trừ ½ giá trị của chiếc xe thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bị cáo Lê Thành V bị tịch thu, sung vào ngân sách Nhà nước ti thời điểm định giá 2.500.000 đồng, kèm theo 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký môtô, xe máy số: 103220, biển kiểm soát: 90B2-63022 mang tên Lê Thành V. Chị C có trách nhiệm đăng ký lại quyền sở hữu đối với tài sản này theo quy định của pháp luật.

- Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) phong bì đã niêm phong mặt trước ghi: “Mẫu vật hoàn trả QT01”, số 127/PC09-MT có chữ ký, dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam và 01 (một) vỏ bao thuốc lá Thăng Long.

Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý ngày 30/7/2019.

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Danh mục án phí, lệ phí Tòa án theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Lê Thành V nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 111/2019/HS-ST ngày 28/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:111/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về